“Căn hộ thuê nơi Turgut tạm bố trí cho ông Erozan ở có lẽ chỉ cách căn hộ của ông mười phút đi bộ - hoặc mười phút chạy bộ, bởi tất cả chúng ta gần như đã chạy, ngay cả Helen cũng cố rảo bước theo kịp dù đi giày cao gót. Turgut lẩm bẩm không thành tiếng (và chửi thề, cha đoán vậy). Ông mang theo một túi xách nhỏ màu đen, cha nghĩ trong đó đựng thuốc men phòng khi bác sĩ không đến hoặc chưa kịp đến. Cuối cùng chúng ta cũng nhận ra mình đang leo lên cầu thang gỗ một ngôi nhà cũ kỹ. Chúng ta lao theo sau Turgut, rồi ông mở bật một cánh cửa tầng trên cùng.
“Ngôi nhà có vẻ như được chia thành nhiều căn hộ nhỏ tồi tàn; đồ đạc trong gian chính của căn hộ này chỉ có một cái giường, mấy chiếc ghế, một cái bàn và một ngọn đèn chiếu sáng duy nhất. Ông bạn của Turgut nằm đắp mền trên sàn, bên cạnh ông ta, một người đàn ông trạc ba mươi lắp ba lắp bắp đứng lên chào chúng tôi. Anh ta sợ hãi và hối hận đến độ gần như hoảng loạn; anh ta cứ vặn vẹo hai bàn tay và kể đi kể lại với Turgut chuyện gì đó. Gạt anh ta qua một bên, Turgut và Selim quỳ xuống bên cạnh ông Erozan. Gương mặt của nạn nhân khốn khổ tái mét, mắt nhắm nghiền, hơi thở hổn hển và dồn dập. Có một vết rách xấu xí ở cổ, không lớn hơn vết chúng ta thấy lần trước nhưng trông lại kinh khủng hơn vì dù nham nhở nhưng vết thương lại sạch sẽ đến kỳ cục, chỉ có một viền máu quanh rìa. Cha chợt nghĩ một vết rách sâu như vậy lẽ ra phải chảy máu rất nhiều, và một khi nhận ra điều đó, bụng cha quặn lên buồn nôn. Cha quàng tay quanh Helen, và chúng ta cứ đứng nhìn chăm chăm, không thể quay mặt đi.
“Turgut đang xem xét vết thương mà không chạm vào đó, và rồi ông ngước nhìn lên chúng ta. ‘Một vài phút trước đây, thằng khốn kiếp này đã đi tìm một bác sĩ lạ mà không hỏi ý kiến tôi, nhưng ông bác sĩ đó không có nhà. Ít nhất, đó cũng là một điều may mắn, bởi chúng ta đâu có cần một ông bác sĩ ở đây lúc này. Nhưng hắn đã bỏ mặc ông Erozan một mình ngay vào lúc hoàng hôn.’ Turgut nói gì đó với Aksoy khiến anh đột ngột đứng dậy - và bằng một sức mạnh mà cha không thể ngờ - đánh đuổi gã bảo vệ bất hạnh khỏi phòng. Gã giật lùi, và rồi chúng ta nghe tiếng bước chân hoảng sợ của gã lao xuống cầu thang. Selim khóa cửa lại và nhìn qua cửa sổ xuống phố, tựa như để đảm bảo với chính mình rằng gã bảo vệ kia sẽ không trở lại. Sau đó, anh ta quỳ xuống cạnh Turgut và cả hai thì thầm hội ý với nhau.
“Một lát sau, Turgut thò tay vào trong chiếc túi xách ông mang theo. Cha thấy ông lôi ra một thứ đã quen thuộc với mình: một bộ đồ nghề săn lùng ma cà rồng, tương tự như bộ ông đã trao cho cha hơn một tuần trước đây trong phòng làm việc, chỉ có điều bộ này chứa trong một cái hộp xinh xắn hơn, trang trí bởi những dòng chữ Ả-rập và thứ gì đó giống như khảm xà cừ. Turgut mở hộp và lôi tất cả mớ đồ nghề bên trong ra. Rồi ông lại ngẩng nhìn lên chúng ta. ‘Các bạn ạ,’ ông lặng lẽ nói, ‘ông bạn của tôi đã bị gã ma cà rồng kia cắn ít nhất là ba lần, và ông ta đang hấp hối. Nếu để ông ta chết tự nhiên trong tình trạng này, chẳng bao lâu ông ta cũng sẽ trở thành quỷ nhập tràng.’ Ông đưa bàn tay to tướng lên chùi trán. ‘Đây là một thời điểm khủng khiếp, và tôi buộc phải yêu cầu cô rời khỏi phòng. Cô gái ạ, cô không nên chứng kiến cảnh này.’
“ ‘Cho phép chúng tôi làm bất cứ việc gì để giúp ông,’ cha ngần ngại lên tiếng, nhưng Helen đã bước tới.
“ ‘Hãy cho tôi ở lại đây,’ cô trầm giọng nói với Turgut. ‘Tôi muốn biết việc đó được thực hiện như thế nào.’ Trong một thoáng, cha băn khoăn vì sao cô lại khao khát muốn biết điều này, và rồi cha chợt nhớ - ý nghĩ kỳ quái - xét cho cùng, cô là một nhà nhân học. Turgut nhìn Helen trừng trừng, rồi có vẻ như chấp nhận lời đề nghị của cô mà không dùng lời, và lại cúi xuống ông bạn. Cha vẫn hy vọng rằng mình đã đoán lầm, nhưng Turgut đang thì thầm gì đó vào tai ông bạn. Ông cầm tay Erozan và vuốt ve bàn tay ấy.
“Sau đó - và đây có lẽ là điều khủng khiếp nhất trong tất cả những điều khủng khiếp xảy ra sau đó - Turgut ấn bàn tay người bạn vào tim mình và bật ra một tràng than khóc thảm thiết, những từ ngữ có vẻ như vọng đến chúng ta từ tận cùng sâu thẳm một câu chuyện không chỉ quá xưa cũ mà còn quá xa lạ đến độ cha không tài nào phân biệt được các âm tiết, giọng rền rĩ thương tiếc hơi giống tiếng kêu gọi cầu nguyện của các tu sĩ mà chúng ta thường nghe phát ra từ các tháp thánh đường trong thành phố - chỉ có điều, tiếng than van của Turgut nghe giống lời mời gọi đến với cõi âm ty địa ngục hơn - một chuỗi âm vang kinh hoàng nổi lên từ ký ức về hàng ngàn doanh trại Ottoman, hàng triệu lính tráng Thổ Nhĩ Kỳ. Cha như thấy được những ngọn cờ phấp phới, những tia máu tung tóe lên chân ngựa, ngọn giáo và vành trăng lưỡi liềm, ánh mặt trời lấp lánh trên các thanh đại đao và bộ giáp xích, những cái đầu, những gương mặt, những thân hình đẹp đẽ trẻ trung bị chém đứt lìa; cha như nghe được tiếng gào thét của những con người đang trở về trong vòng tay của Thánh Allah và tiếng gào khóc của những người cha người mẹ từ nơi chốn xa xăm; cha như ngửi được mùi khói những căn nhà đang bốc cháy và mùi máu tươi, mùi lưu huỳnh của đạn đại bác, những đám cháy bùng lên từ lều, cầu và xác ngựa.
“Thật vô cùng kỳ lạ khi giữa những âm thanh cuồng nộ đó cha nghe được một tiếng thét mà cha hiểu ngay: ‘Kaziklu Bey! Kẻ Xiên Người!’ Và dường như cha cũng nhận ra giữa đám hỗn loạn đó một con người khác hẳn với những người còn lại, một kỵ sĩ mặc áo choàng đen đang quay cuồng giữa những màu sắc chói lọi, khuôn mặt co rúm nhe răng gầm gừ và lưỡi kiếm chặt đứt không biết bao nhiêu thủ cấp của quân lính Ottoman, những cái đầu đội mũ sắt nặng nề lăn tròn.
“Tiếng Turgut ngưng bặt và cha nhận ra mình đang đứng gần ông ta, nhìn xuống người đàn ông hấp hối. Helen cũng đứng sát bên cha - cha mở miệng định hỏi nhưng nhận ra cô cũng cảm nhận được nỗi kinh hoàng tương tự trong bài tụng của Turgut. Dù không muốn, cha vẫn nhớ là dòng máu của Kẻ Xiên Người đang chảy trong huyết quản cô. Helen quay sang cha một lát, thái độ vẫn điềm tĩnh dù không giấu được vẻ xúc động trên gương mặt; chính lúc ấy, cha chợt nhận ra di sản của thầy Rossi - tính hòa nhã, lòng cao thượng, một chút của người Ý, một chút của người Anh - cũng chảy trong con người Helen, và cha thấy lòng nhân hậu không gì sánh được của thầy Rossi trong mắt cô. Trong khoảnh khắc đó, cha nghĩ - không phải là sau này trong ngôi nhà thờ màu nâu buồn tẻ của ông bà nội con nơi quê nhà, không phải trước bất kỳ vị mục sư nào - cha đã lấy Helen làm vợ, cha đã cưới cô ấy trong tâm tưởng, cha sẽ chung thủy với cô suốt cuộc đời.
“Turgut, giờ đã yên lặng, đặt tràng hạt cầu nguyện lên cổ họng ông bạn, khiến thi thể ấy khẽ rung lên, rồi ông chọn trong cái hộp lót xa tanh kia một cây cọc bằng bạc sáng bóng dài hơn bàn tay cha. ‘Xin Thượng đế hãy cứu vớt con, trong suốt cuộc đời mình con chưa bao giờ phải làm như thế này,’ ông lặng lẽ nói. Ông mở nút áo sơ mi của Erozan ra, và cha nhìn thấy lớp da nhăn nheo vì tuổi tác, đám lông ngực quăn queo màu xám tro, chỗ dựng lên chỗ nằm bẹp hỗn độn. Selim im lặng tìm quanh căn phòng rồi mang đến cho Turgut một viên gạch mà có vẻ như vốn được dùng làm vật chêm cửa, Turgut cầm ước lượng xem cái vật dụng thô kệch kia nặng nhẹ thế nào. Ông đặt đầu nhọn của cây cọc trên ngực trái ông thủ thư và bắt đầu trầm giọng ê a một bài tụng niệm, trong đó cha nghe được những tiếng mà cha nhớ là đã nghe hoặc thấy ở đâu đó - trong sách, trong phim, hoặc trong lúc chuyện trò? - ‘Allahu akbar, Allahu akbar: Thượng đế vĩ đại.’ Cha biết mình không thể buộc Helen rời khỏi căn phòng này cũng như cha không thể bỏ ra ngoài một mình, nhưng cha kéo cô lùi lại một bước khi viên gạch giáng xuống. Bàn tay Turgut thô và chắc. Selim giữ cây cọc thẳng đứng, và rồi sau một tiếng phập khô khan, cây cọc ngập vào thi thể ông thủ thư. Máu ứa ra trên làn da xanh tái chung quanh cây cọc. Trong một thoáng, mặt ông Erozan co giật một cách đáng sợ, hai môi nhếch lên để lộ hàm răng ố vàng chẳng khác gì răng chó. Helen nhìn trừng trừng còn cha thì không dám quay đi; cha không muốn cô nhìn thấy bất kỳ điều gì mà cha không thể cùng chứng kiến. Thi thể người thủ thư rung lên, cây cọc bất chợt lún ngọt đến tận cán, Turgut ngồi thụt lui, tựa như đang chờ đợi. Môi ông run run và mồ hôi lấm tấm khắp mặt.
“Một lát sau, thi thể Erozan chùng xuống, rồi gương mặt cũng giãn ra; hai môi khép lại thanh thản, một tiếng thở dài thoát ra từ lồng ngực; hai bàn chân trong đôi vớ rách thảm hại co rút rồi nằm yên. Cha siết chặt người Helen và thấy cô đang run rẩy bên mình, nhưng cô vẫn đứng lặng yên. Turgut cầm bàn tay mềm oặt của người bạn và hôn lên đó. Cha thấy những giọt nước mắt lăn dài trên khuôn mặt hồng hào của ông, ướt đẫm bộ râu mép, và ông lấy tay che mắt. Selim chạm vào hàng lông mày của người thủ thư rồi đứng dậy và bóp nhẹ vai Turgut.
“Một lát sau, Turgut trấn tĩnh lại, ông đứng dậy hỉ mũi vào khăn tay. ‘Ông ấy là một người rất tốt,’ Turgut nói, giọng run run. ‘Một con người tử tế và rộng lượng. Bây giờ ông ấy đang yên nghỉ trong thanh bình cùng Đức Tiên Tri Muhammad thay vì kết bè kết đảng với lũ quỷ dữ trong địa ngục.’ Ông quay đi chùi nước mắt. ‘Các bạn ạ, chúng ta phải đưa xác ông ấy ra khỏi nơi này. Có một bác sĩ ở bệnh viện - ông ấy sẽ giúp chúng ta. Anh Selim sẽ khóa cửa ở lại đây trong lúc tôi đi gọi điện thoại, ông bác sĩ đó sẽ đến cùng xe cứu thương và ký các giấy tờ cần thiết.’ Turgut lấy trong túi mấy nhánh tỏi và nhẹ nhàng nhét chúng vào miệng người chết. Selim rút cây cọc ra, đem đi rửa trong cái chậu ở góc phòng rồi cẩn thận đặt nó trở lại trong chiếc hộp đẹp đẽ. Turgut chùi sạch mọi dấu máu, băng bó ngực người bạn bằng một tấm khăn lau bát rồi cài lại nút áo cho ông ta, sau đó ông để cha giúp ông đắp lên thi thể đó một tấm khăn trải giường, phủ kín gương mặt giờ đã bình lặng của người bạn.
“ ‘Giờ thì, các bạn thân mến, tôi cầu xin các bạn một ân huệ đây. Các bạn đã chứng kiến những gì mà lũ quỷ nhập tràng kia có thể làm, và chúng ta đều biết chúng đang hiện diện nơi đây. Các bạn phải luôn chú ý bảo vệ bản thân. Và nếu có thể thu xếp, xin các bạn hãy đến Bungari - càng sớm càng tốt - trong vòng vài ngày tới. Hãy gọi về nhà tôi khi các bạn đã lên được kế hoạch.’ Ông nhìn cha đăm đăm. ‘Nếu chúng ta không gặp lại nhau trước khi các bạn ra đi, tôi cầu chúc các bạn may mắn và bình yên. Tôi sẽ nghĩ đến các bạn từng giây từng phút. Xin hãy gọi cho tôi ngay khi các bạn trở về Istanbul, nếu các bạn còn quay trở lại nơi này.’
“Cha hy vọng ông chỉ có ý Nếu việc trở về đó thuận tiện cho lộ trình của các bạn chứ không phải là Nếu các bạn sống sót trở về từ Bungari. Ông nồng nhiệt bắt tay chúng ta, cả Selim cũng vậy, sau cái bắt tay anh chàng này còn hôn tay Helen nữa, dù vẫn tỏ ra rất bẽn lẽn.
“ ‘Chúng tôi phải đi đây,’ Helen chỉ nói vậy rồi khoác lấy tay cha và chúng ta ra khỏi căn phòng bi thảm đó, bước xuống cầu thang ra phố.”
“Ngôi nhà có vẻ như được chia thành nhiều căn hộ nhỏ tồi tàn; đồ đạc trong gian chính của căn hộ này chỉ có một cái giường, mấy chiếc ghế, một cái bàn và một ngọn đèn chiếu sáng duy nhất. Ông bạn của Turgut nằm đắp mền trên sàn, bên cạnh ông ta, một người đàn ông trạc ba mươi lắp ba lắp bắp đứng lên chào chúng tôi. Anh ta sợ hãi và hối hận đến độ gần như hoảng loạn; anh ta cứ vặn vẹo hai bàn tay và kể đi kể lại với Turgut chuyện gì đó. Gạt anh ta qua một bên, Turgut và Selim quỳ xuống bên cạnh ông Erozan. Gương mặt của nạn nhân khốn khổ tái mét, mắt nhắm nghiền, hơi thở hổn hển và dồn dập. Có một vết rách xấu xí ở cổ, không lớn hơn vết chúng ta thấy lần trước nhưng trông lại kinh khủng hơn vì dù nham nhở nhưng vết thương lại sạch sẽ đến kỳ cục, chỉ có một viền máu quanh rìa. Cha chợt nghĩ một vết rách sâu như vậy lẽ ra phải chảy máu rất nhiều, và một khi nhận ra điều đó, bụng cha quặn lên buồn nôn. Cha quàng tay quanh Helen, và chúng ta cứ đứng nhìn chăm chăm, không thể quay mặt đi.
“Turgut đang xem xét vết thương mà không chạm vào đó, và rồi ông ngước nhìn lên chúng ta. ‘Một vài phút trước đây, thằng khốn kiếp này đã đi tìm một bác sĩ lạ mà không hỏi ý kiến tôi, nhưng ông bác sĩ đó không có nhà. Ít nhất, đó cũng là một điều may mắn, bởi chúng ta đâu có cần một ông bác sĩ ở đây lúc này. Nhưng hắn đã bỏ mặc ông Erozan một mình ngay vào lúc hoàng hôn.’ Turgut nói gì đó với Aksoy khiến anh đột ngột đứng dậy - và bằng một sức mạnh mà cha không thể ngờ - đánh đuổi gã bảo vệ bất hạnh khỏi phòng. Gã giật lùi, và rồi chúng ta nghe tiếng bước chân hoảng sợ của gã lao xuống cầu thang. Selim khóa cửa lại và nhìn qua cửa sổ xuống phố, tựa như để đảm bảo với chính mình rằng gã bảo vệ kia sẽ không trở lại. Sau đó, anh ta quỳ xuống cạnh Turgut và cả hai thì thầm hội ý với nhau.
“Một lát sau, Turgut thò tay vào trong chiếc túi xách ông mang theo. Cha thấy ông lôi ra một thứ đã quen thuộc với mình: một bộ đồ nghề săn lùng ma cà rồng, tương tự như bộ ông đã trao cho cha hơn một tuần trước đây trong phòng làm việc, chỉ có điều bộ này chứa trong một cái hộp xinh xắn hơn, trang trí bởi những dòng chữ Ả-rập và thứ gì đó giống như khảm xà cừ. Turgut mở hộp và lôi tất cả mớ đồ nghề bên trong ra. Rồi ông lại ngẩng nhìn lên chúng ta. ‘Các bạn ạ,’ ông lặng lẽ nói, ‘ông bạn của tôi đã bị gã ma cà rồng kia cắn ít nhất là ba lần, và ông ta đang hấp hối. Nếu để ông ta chết tự nhiên trong tình trạng này, chẳng bao lâu ông ta cũng sẽ trở thành quỷ nhập tràng.’ Ông đưa bàn tay to tướng lên chùi trán. ‘Đây là một thời điểm khủng khiếp, và tôi buộc phải yêu cầu cô rời khỏi phòng. Cô gái ạ, cô không nên chứng kiến cảnh này.’
“ ‘Cho phép chúng tôi làm bất cứ việc gì để giúp ông,’ cha ngần ngại lên tiếng, nhưng Helen đã bước tới.
“ ‘Hãy cho tôi ở lại đây,’ cô trầm giọng nói với Turgut. ‘Tôi muốn biết việc đó được thực hiện như thế nào.’ Trong một thoáng, cha băn khoăn vì sao cô lại khao khát muốn biết điều này, và rồi cha chợt nhớ - ý nghĩ kỳ quái - xét cho cùng, cô là một nhà nhân học. Turgut nhìn Helen trừng trừng, rồi có vẻ như chấp nhận lời đề nghị của cô mà không dùng lời, và lại cúi xuống ông bạn. Cha vẫn hy vọng rằng mình đã đoán lầm, nhưng Turgut đang thì thầm gì đó vào tai ông bạn. Ông cầm tay Erozan và vuốt ve bàn tay ấy.
“Sau đó - và đây có lẽ là điều khủng khiếp nhất trong tất cả những điều khủng khiếp xảy ra sau đó - Turgut ấn bàn tay người bạn vào tim mình và bật ra một tràng than khóc thảm thiết, những từ ngữ có vẻ như vọng đến chúng ta từ tận cùng sâu thẳm một câu chuyện không chỉ quá xưa cũ mà còn quá xa lạ đến độ cha không tài nào phân biệt được các âm tiết, giọng rền rĩ thương tiếc hơi giống tiếng kêu gọi cầu nguyện của các tu sĩ mà chúng ta thường nghe phát ra từ các tháp thánh đường trong thành phố - chỉ có điều, tiếng than van của Turgut nghe giống lời mời gọi đến với cõi âm ty địa ngục hơn - một chuỗi âm vang kinh hoàng nổi lên từ ký ức về hàng ngàn doanh trại Ottoman, hàng triệu lính tráng Thổ Nhĩ Kỳ. Cha như thấy được những ngọn cờ phấp phới, những tia máu tung tóe lên chân ngựa, ngọn giáo và vành trăng lưỡi liềm, ánh mặt trời lấp lánh trên các thanh đại đao và bộ giáp xích, những cái đầu, những gương mặt, những thân hình đẹp đẽ trẻ trung bị chém đứt lìa; cha như nghe được tiếng gào thét của những con người đang trở về trong vòng tay của Thánh Allah và tiếng gào khóc của những người cha người mẹ từ nơi chốn xa xăm; cha như ngửi được mùi khói những căn nhà đang bốc cháy và mùi máu tươi, mùi lưu huỳnh của đạn đại bác, những đám cháy bùng lên từ lều, cầu và xác ngựa.
“Thật vô cùng kỳ lạ khi giữa những âm thanh cuồng nộ đó cha nghe được một tiếng thét mà cha hiểu ngay: ‘Kaziklu Bey! Kẻ Xiên Người!’ Và dường như cha cũng nhận ra giữa đám hỗn loạn đó một con người khác hẳn với những người còn lại, một kỵ sĩ mặc áo choàng đen đang quay cuồng giữa những màu sắc chói lọi, khuôn mặt co rúm nhe răng gầm gừ và lưỡi kiếm chặt đứt không biết bao nhiêu thủ cấp của quân lính Ottoman, những cái đầu đội mũ sắt nặng nề lăn tròn.
“Tiếng Turgut ngưng bặt và cha nhận ra mình đang đứng gần ông ta, nhìn xuống người đàn ông hấp hối. Helen cũng đứng sát bên cha - cha mở miệng định hỏi nhưng nhận ra cô cũng cảm nhận được nỗi kinh hoàng tương tự trong bài tụng của Turgut. Dù không muốn, cha vẫn nhớ là dòng máu của Kẻ Xiên Người đang chảy trong huyết quản cô. Helen quay sang cha một lát, thái độ vẫn điềm tĩnh dù không giấu được vẻ xúc động trên gương mặt; chính lúc ấy, cha chợt nhận ra di sản của thầy Rossi - tính hòa nhã, lòng cao thượng, một chút của người Ý, một chút của người Anh - cũng chảy trong con người Helen, và cha thấy lòng nhân hậu không gì sánh được của thầy Rossi trong mắt cô. Trong khoảnh khắc đó, cha nghĩ - không phải là sau này trong ngôi nhà thờ màu nâu buồn tẻ của ông bà nội con nơi quê nhà, không phải trước bất kỳ vị mục sư nào - cha đã lấy Helen làm vợ, cha đã cưới cô ấy trong tâm tưởng, cha sẽ chung thủy với cô suốt cuộc đời.
“Turgut, giờ đã yên lặng, đặt tràng hạt cầu nguyện lên cổ họng ông bạn, khiến thi thể ấy khẽ rung lên, rồi ông chọn trong cái hộp lót xa tanh kia một cây cọc bằng bạc sáng bóng dài hơn bàn tay cha. ‘Xin Thượng đế hãy cứu vớt con, trong suốt cuộc đời mình con chưa bao giờ phải làm như thế này,’ ông lặng lẽ nói. Ông mở nút áo sơ mi của Erozan ra, và cha nhìn thấy lớp da nhăn nheo vì tuổi tác, đám lông ngực quăn queo màu xám tro, chỗ dựng lên chỗ nằm bẹp hỗn độn. Selim im lặng tìm quanh căn phòng rồi mang đến cho Turgut một viên gạch mà có vẻ như vốn được dùng làm vật chêm cửa, Turgut cầm ước lượng xem cái vật dụng thô kệch kia nặng nhẹ thế nào. Ông đặt đầu nhọn của cây cọc trên ngực trái ông thủ thư và bắt đầu trầm giọng ê a một bài tụng niệm, trong đó cha nghe được những tiếng mà cha nhớ là đã nghe hoặc thấy ở đâu đó - trong sách, trong phim, hoặc trong lúc chuyện trò? - ‘Allahu akbar, Allahu akbar: Thượng đế vĩ đại.’ Cha biết mình không thể buộc Helen rời khỏi căn phòng này cũng như cha không thể bỏ ra ngoài một mình, nhưng cha kéo cô lùi lại một bước khi viên gạch giáng xuống. Bàn tay Turgut thô và chắc. Selim giữ cây cọc thẳng đứng, và rồi sau một tiếng phập khô khan, cây cọc ngập vào thi thể ông thủ thư. Máu ứa ra trên làn da xanh tái chung quanh cây cọc. Trong một thoáng, mặt ông Erozan co giật một cách đáng sợ, hai môi nhếch lên để lộ hàm răng ố vàng chẳng khác gì răng chó. Helen nhìn trừng trừng còn cha thì không dám quay đi; cha không muốn cô nhìn thấy bất kỳ điều gì mà cha không thể cùng chứng kiến. Thi thể người thủ thư rung lên, cây cọc bất chợt lún ngọt đến tận cán, Turgut ngồi thụt lui, tựa như đang chờ đợi. Môi ông run run và mồ hôi lấm tấm khắp mặt.
“Một lát sau, thi thể Erozan chùng xuống, rồi gương mặt cũng giãn ra; hai môi khép lại thanh thản, một tiếng thở dài thoát ra từ lồng ngực; hai bàn chân trong đôi vớ rách thảm hại co rút rồi nằm yên. Cha siết chặt người Helen và thấy cô đang run rẩy bên mình, nhưng cô vẫn đứng lặng yên. Turgut cầm bàn tay mềm oặt của người bạn và hôn lên đó. Cha thấy những giọt nước mắt lăn dài trên khuôn mặt hồng hào của ông, ướt đẫm bộ râu mép, và ông lấy tay che mắt. Selim chạm vào hàng lông mày của người thủ thư rồi đứng dậy và bóp nhẹ vai Turgut.
“Một lát sau, Turgut trấn tĩnh lại, ông đứng dậy hỉ mũi vào khăn tay. ‘Ông ấy là một người rất tốt,’ Turgut nói, giọng run run. ‘Một con người tử tế và rộng lượng. Bây giờ ông ấy đang yên nghỉ trong thanh bình cùng Đức Tiên Tri Muhammad thay vì kết bè kết đảng với lũ quỷ dữ trong địa ngục.’ Ông quay đi chùi nước mắt. ‘Các bạn ạ, chúng ta phải đưa xác ông ấy ra khỏi nơi này. Có một bác sĩ ở bệnh viện - ông ấy sẽ giúp chúng ta. Anh Selim sẽ khóa cửa ở lại đây trong lúc tôi đi gọi điện thoại, ông bác sĩ đó sẽ đến cùng xe cứu thương và ký các giấy tờ cần thiết.’ Turgut lấy trong túi mấy nhánh tỏi và nhẹ nhàng nhét chúng vào miệng người chết. Selim rút cây cọc ra, đem đi rửa trong cái chậu ở góc phòng rồi cẩn thận đặt nó trở lại trong chiếc hộp đẹp đẽ. Turgut chùi sạch mọi dấu máu, băng bó ngực người bạn bằng một tấm khăn lau bát rồi cài lại nút áo cho ông ta, sau đó ông để cha giúp ông đắp lên thi thể đó một tấm khăn trải giường, phủ kín gương mặt giờ đã bình lặng của người bạn.
“ ‘Giờ thì, các bạn thân mến, tôi cầu xin các bạn một ân huệ đây. Các bạn đã chứng kiến những gì mà lũ quỷ nhập tràng kia có thể làm, và chúng ta đều biết chúng đang hiện diện nơi đây. Các bạn phải luôn chú ý bảo vệ bản thân. Và nếu có thể thu xếp, xin các bạn hãy đến Bungari - càng sớm càng tốt - trong vòng vài ngày tới. Hãy gọi về nhà tôi khi các bạn đã lên được kế hoạch.’ Ông nhìn cha đăm đăm. ‘Nếu chúng ta không gặp lại nhau trước khi các bạn ra đi, tôi cầu chúc các bạn may mắn và bình yên. Tôi sẽ nghĩ đến các bạn từng giây từng phút. Xin hãy gọi cho tôi ngay khi các bạn trở về Istanbul, nếu các bạn còn quay trở lại nơi này.’
“Cha hy vọng ông chỉ có ý Nếu việc trở về đó thuận tiện cho lộ trình của các bạn chứ không phải là Nếu các bạn sống sót trở về từ Bungari. Ông nồng nhiệt bắt tay chúng ta, cả Selim cũng vậy, sau cái bắt tay anh chàng này còn hôn tay Helen nữa, dù vẫn tỏ ra rất bẽn lẽn.
“ ‘Chúng tôi phải đi đây,’ Helen chỉ nói vậy rồi khoác lấy tay cha và chúng ta ra khỏi căn phòng bi thảm đó, bước xuống cầu thang ra phố.”
Danh sách chương