Thơ rằng:
Tuyết đè quan ải cảnh nao nao
Gió bấc đưa về phủ trắng đầu
Nằm bẹp Lạc Dương hai gối nhác 1
Nhớ sôi Diễm Thủy một chèo mau 2
Bông sơ cuống quýt toan bay thốc
Bọt nước mong manh chực thổi vèo
Dừng ngựa Lam Quan chiều nghẽn lối 3
Tri âm gặp mặt thỏa lòng nhau.
Trên đây là một bài thơ vịnh cảnh tuyết, ca ngợi vẻ đẹp sự thanh cao của tuyết. Tuyết khiến chén rượu nóng uống càng đậm đà, tuyết khiến mối sầu của khách đi đường càng tăng vẻ thê lương, có khi tuyết gợi hứng, làm nguyên cớ của những gặp gỡ giữa bạn bè, tri kỷ, Kiến Uy rời Sơn Đông, qua Hà Đông, tìm vào phủ đường Lộ Châu, hỏi tin Thúc Bảo, trở ra quán trọ của Vương Tiểu Nhị, hỏi:
- Bác chủ xin hỏi bác một chuyện, gần đây có ai là người phủ Tế Châu, thuộc Sơn Đông, họ Tần, tên là Thúc Bảo, đến ở trọ quán bác không?
Tiểu Nhị đáp:
- Có Tần quý khách trọ ở hàng tiểu nhân, nhưng ngày mùng một tháng mười vừa rồi, đã bán ngựa lấy tiền đi đường, về quê ngay đêm hôm ấy rồi.
Kiến Uy nghe nói, thở dài rơi nước mắt. Còn Tiểu Nhị, vì khách trọ đông, gọi rối rít, đã bỏ đi từ lúc nào.
Liễu Thị thấy thế, bèn để ý, lại gần hỏi:
- Quý khách cho biết quý tính?
Kiến Uy đáp:
- Ta họ Phàn.
Liễu Thị tiếp:
- Có phải Phàn Kiến Uy chăng?
Kiến Uy tiến vội hỏi:
- Nhà chị sao lại biết ta là Phàn Kiến Uy.
Liễu Thị đáp.
- Tần quý khách vướng víu ở đây mãi, ngày ngày trông đợi Phàn quý khách. Chúng tôi đối xử với Tần quý khách chẳng được chu đáo. Tối hôm đầu tháng mười vừa rồi, Tần quý khách đã lên đường về. Lại có chuyện chưa đến nhà sao?
Kiến Uy:
- Chính vì chưa thấy về, nên ta phải đi tìm.
Kiến Uy thầm nghĩ: "Giờ đã là đầu mùa đông, không thể có chuyện đi đường đến hai tháng, nhất định xảy ra việc gì. Có ở lại đây cũng vô ích". Kiến Uy ăn bữa cơm trưa, trả tiền chu đáo rồi ra cửa đông, quay về Sơn Đông.
Trời thổi gió mạnh, tuyết đồ càng dày, Kiến Uy dầm trong gió tuyết, đầu cổ trùm kín, cứ trong tuyết mà đi mãi, lạnh cứng cả mặt mũi, hai tay, nhìn bốn bên chỉ thấy:
Tung bay trút từ trên ải bắc
Phơi phơi rơi rắc khắp cô thành
Vườn Lương cầu Bá quanh quanh
Quật lên úp xuống thình lình dừng quay
Như có sức đổi thay tạo hóa
Như có tài tuốt lá nhổ cây
Vừng hồng tối sẫm mặt mày
Rừng xanh nhạt sắc, đông tây lạc đường
Dòng Trường Giang, cá dường lặn đáy
Tầng mây cao, cánh sẩy nhạn xa
Cọp gầm vượn hú xa xa
Lúa đồng vùi nát, hoa nhà dập tan
Kể sao xiết muôn vàn tai hại
Điềm lành sao, địa quái thiên tai?
Cằn gốc liễu, trụi cành mai
Đường xa lối nghẽn, đền đài phôi pha
Phủ đầy cửa ra vào quán lạ
Nguồn cơn này hồ đã biết vay!
Buôn lắm thay, khổ lắm thay
Cảnh nhà hàn sĩ đắng cay thế nào
Cầu khẩn đến trời cao giáng phúc
Tâu Ngọc Hoàng chí đức chí nhân
Mây thiêng kíp kíp xoay vần
Vừng dương sáng chói, khí xuân chan hòa
An cư lạc nghiệp, câu ca. . .
Kiến Uy lặn lội trong cảnh gió tuyết, rét thấu xương, đến được Thập Lý điếm thì trời cũng đã chiều. Chưa biết ngủ trọ nơi nào, lại cũng tìm đến miếu Đông Nhạc, nơi Thúc Bảo bị ốm mấy tuần trước. Cho nên nếu không có trận tuyết lớn này, làm gì Kiến Uy phải vào miếu Đông Nhạc này. Gặp đúng lúc ông từ đứng đó đóng cửa, thấy có người đến xin nghỉ trọ, ông từ liền vào Tùng Hạc hiên thưa. Ngụy Trưng vốn thương người, liền cho Kiến Uy vào phòng phía sau. Đặt hành lý vào một góc, rũ hết tuyết trên áo mũ, Kiến Uy vái chào Ngụy Trưng. Ngụy Trưng lúc này mới hỏi:
- Khách trọ đâu đến?
Kiến Uy đáp:
- Tiểu đệ họ Phàn, người Tế Châu thuộc Sơn Đông đến Lộ Châu tìm người bạn, gặp tuyết lớn, vào đây xin nhờ đạo trưởng qua đêm nay, sáng ra sẽ xin hậu tạ.
Nguy Trưng đáp:
- Khách có phải Phàn Kiến Uy chăng?
Kiến Uy giật mình vội hỏi:
- Đạo trưởng sao lại biết tiểu đệ?
Ngụy Trưng đáp:
- Thúc Bảo hiền huynh thường hay nói đến tên khách.
Kiến Uy vui mừng hỏi tiếp:
- Thúc Bảo hiện ở đâu?
Ngụy Trưng đáp:
- Khách đừng vội vàng thế! Nhanh hay chậm thì cũng chỉ gặp mặt Thúc Bảo thôi.
Kiến Uy vẫn dồn dập:
- Thúc Bảo đâu rồi!
Ngụy Trưng từ từ:
- Ngày mùng hai tháng mười, Thúc Bảo đến đây nhưng bị ốm nặng.
Kiến Uy dậm chân:
- Thế là thế nào? Hiện đâu rồi?
Ngụy Trưng vẫn thong thả:
- Ngày mười lăm tháng mười, Đơn viên ngoại đưa về Nhị Hiền trang để dưỡng bệnh. Đến mười lăm tháng mười một thì bệnh đã khỏi, có đến tạ ơn ở miếu này, nhưng vì trời lạnh nên vẫn ở Nhị
Hiền trang, Đơn viên ngoại giữ chưa cho về.
Kiến Uy nghe đến đây mới yên tâm. Chính là:
Tráng sĩ được vàng ngàn lạng
Hàn nho tên rạng tam nguyên
Đêm động phòng hoa chúc như tiên
Buổi họp mặt thân quen rạng rỡ
Như hùm thêm cánh vỗ
Như rồng gặp sấm ran
Lão nông được trận mưa tràn
Tuổi già thêm cành đan quế. 4
Ngụy Trưng sai lấy trà rượu, hoa quả, ngồi tiếp Kiến Uy. Kiến Uy vì suốt ngày xông pha ngoài gió tuyết, người mệt mỏi, nên cũng uống khá nhiều rượu nóng, rồi ngủ kỹ. Mới sáng mai ra Kiến Uy đã trở dậy, mở hành lý, lấy bạc tạ ơn Ngụy Trưng. Nhưng biết là bạn Thúc Bảo, Ngụy Trưng nhất định không chịu nhận, lại giữ Kiến Uy lại dùng bữa sáng, rồi đưa ra khỏi cửa tam quan, chỉ đường tắt về Nhị Hiền trang, Kiến Uy cứ theo thế mà đi.
Lúc này Hùng Tín cùng Thúc Bảo đang ngồi trong thư phòng sưởi ấm, uống rượu, thưởng cảnh tuyết bên ngoài rất là thích ý. Đầy tớ vào thưa có ông khách xưng là họ Phàn, đem thư của Tần mẫu tới.
Thúc Bảo vui mừng:
- Đơn nhị ca, lão thân cho Kiến Uy đem thư tới rồi!
Hai người vội chạy ra đón. Thúc Bảo vui mừng reo lên:
- Đúng là hiền đệ rồi!
Kiến Uy cũng vội nói:
- Lần ấy chia hành lý, tiền bạc đều ở chỗ tiểu đệ, quên không chia. Tiểu đệ đã đưa lại cho bá mẫu, nhưng bá mẫu nhất định không cầm, bảo tiểu đệ giữ làm lộ phí để đi tìm đại huynh.
Thúc Bảo nói:
- Tiền bạc chẳng có bên mình, bao nhiêu chuyện rầy rà xảy ra.
Hùng Tín bàn:
- Những chuyện ấy khoan nói, hãy xin mời vào nhà đã!
Hùng Tín gọi đầy tớ cất hành lý, còn mình thì dẫn Kiến Uy vào thư phòng sưởi ấm. Hai bên lúc này mới làm lễ chủ khách. Thúc Bảo cũng chắp tay vái tạ Kiến Uy đã khó nhọc vì mình. Hùng Tín sai người nhà bày tiệc rượu. Thúc Bảo hỏi:
- Thân mẫu tiểu đệ sức khoẻ ra sao?
Kiến Uy đáp:
- Có thư của bá mẫu, đại huynh cứ xem sẽ rõ!
Thúc Bảo xem thư xong. Nước mắt chan hòa, lặng lẽ đứng đậy, thu xếp hành lý.
Một thư chữ mẹ đầy mong nhớ
Muôn dặm lòng con nỗi xốn xang.
Hùng Tín thấy thế, cứ yên lặng khẽ cười. Tiệc rượu đã bày ra, ba người cùng ngồi, gối kề gối, vai sát vai. Hùng Tín hỏi:
- Thúc Bảo, lệnh đường có khỏe không?
Thúc Bảo đáp:
- Thân mẫu hiện ốm nặng!
Hùng Tín hỏi:
- Thấy hiền huynh chuẩn bị hành lý, có lẽ định về Sơn Đông, ngay chăng?
Thúc Bảo chùi nước mắt đáp:
- Không phải tiểu đệ là kẻ vô ơn, ăn no rồi ưỡn bụng ra đi. Nhưng quả tình mẫu thân bệnh nặng, xin tạm biệt nhị ca. Sang năm sẽ quay lại xin tạ ơn tái tạo của nhị ca.
Hùng Tín đáp:
- Hiền huynh trở về, Hùng Tín này không dám ngăn trở. Nhưng đã là bạn bè thì phải làm cho nhau trở nên hoàn thiện hơn. Thần trung con hiếu, đời nào không có. Nhưng cần phải làm kẻ có lòng thành thực, chứ không phải để mua cái danh tiếng bề ngoài thôi!
Thúc Bảo hỏi:
- Xin nhị ca dạy cho. Thế nào là hiếu thật, thế nào là hiếu giả?
Hùng Tín đáp:
- Kẻ có hiếu lớn là hiếu thật, kẻ chỉ chăm sự hiếu nhỏ là hiếu giả. Vội vàng làm theo ý mình là hiếu giả. Cũng như bây giờ, hiền huynh ngày đêm lặn lội về quê, có vẻ là hiếu thật, nhưng thật ra là hiếu giả.
Thúc Bảo nước mắt lúc này đã khô, bất giác khẽ cười hỏi:
- Tiểu đệ gặp lúc vừa nghèo túng, vừa bệnh tật không nơi nương tựa xa cách thân mẫu đã lâu ngày, cũng là sự bất đắc dĩ, nay nghe thân mẫu bệnh nặng, ngày đêm trở về, cũng là sự chí tình của kẻ làm con, sao lại nói là hiếu nhỏ, hiếu giả được?
Kiến Uy đỡ lời cho Thúc Bảo rằng:
- Tần đại huynh nghe tin thân mẫu ốm là một lẽ, lẽ thứ hai là thân mẫu bệnh phải trở về ngay, nên vội lên đường, đó chính là hiếu lớn còn gì!
Hùng Tín giải thích:
- Chư huynh biết một mà không biết hai. Lệnh tiên quân 5 làm tướng nhà Bắc Tề, Bắc Tề mất, thân vong, những cái đó đều có nghĩa lớn, đại thần của một nước sắp mất, không thể tính đến chuyện sống còn của mình. Nhưng trời không nỡ nhìn thấy bậc trung thần tuyệt hậu, nên vẫn còn để lại cái vẻ anh hùng của hiền huynh. Hiện giờ chính là hiền huynh giữ lấy thân mình, chờ ngày lập nên sự nghiệp lẫy lừng, rạng rỡ họ Tần. Nay hiền huynh xông pha mưa tuyết gió lạnh, bệnh vừa mới đỡ, nếu giữa đường bệnh trở lại, nguyên khí không thể giữ nổi, vạn nhất có lúc hai là dài, ba là ngắn, đến nỗi mất cả kẻ nối dõi họ Tần, mất cả sự kỳ vọng suốt đời của bá mẫu, thì dù cho là chí tình, nhưng vẫn không phải là đạo hiếu. Kẻ quân tử đi, nhưng không chịu đi đường tắt, ngồi thuyền chứ không chịu bơi tay không, dù gặp lúc phải đi vội, nhưng cũng không dám quên chữ hiếu. Xông pha trong tuyết lớn như thế. Hùng Tín này không dám nghe theo vậy!
Thúc Bảo bèn hỏi:
- Nếu thế thì tiểu đệ không về nữa, mới là hiếu hay sao?
Hùng Tín cười đáp:
- Ai bảo hiền huynh không về. Chẳng qua chỉ là hãy biết chờ thêm ít lâu. Vả lại bá mẫu là bậc hiền thục, hiểu mọi lý lẽ. Nay nhờ Kiến Uy đi tìm hiền huynh, cũng chỉ vì lòng yêu con của người mẹ, không hiểu tình cảnh con mình ra sao, không thể ngồi yên. Nay hiền huynh viết một phong thư, kể cả rõ việc lãnh công văn lâu ra làm sao, đang khi trở về thì ngã bệnh làm sao, đến này thì đã khỏi hắn, nhưng vẫn chưa thể dãi tuyết dầm sương, nghe mẫu thân ốm nặng bảo về ngay, nhưng Hùng Tín này giữ lại chưa cho về. Lệnh đường thấy hiện huynh đã có nơi chốn dưỡng bệnh, thì sầu não càng vơi dần, biết rõ bệnh tình của hiền huynh chưa thật khỏi, cũng không lòng nào để con dầm sương tuyết. Hùng Tín này với hiền huynh đã là "Nhất bái chi giao", mẫu thân của hiền huynh cũng là mẫu thân của Hùng Tín này, ta sẽ sắm ít lễ vật, gửi về an ủi bá mẫu, nhờ luôn Kiến Uy đem theo công văn về nạp cho phủ đường Tế Châu, trình rõ với Lưu thái thú, ốm đau ở Lộ Châu thế nào, đến nỗi hiền huynh chưa về được. Thế là việc công việc tư đều đầy đủ. Đợi đến ngày xuân nắng ấm, lúc đó Hùng Tín sẽ vì hiền huynh mà kiếm ít vốn liếng, để khi hiền huynh trở về, không thèm làm công sai ở phủ đường nữa. "Cầu vinh bất tại chu môn hạ" . Làm các việc này, luôn bị sai phái, mất cả tự do, để đến nỗi bá mẫu ngày ngày trông đợi, lo lắng, thật không tròn đạo hiếu vậy! Ngồi đợi thời, không phải là không có hiếu đâu!
Thúc Bảo nghe Hùng Tín nói có tình có lý, lại cũng thấy mình chưa dãi dầu tuyết lạnh, đường xá xa xôi, bèn nói với Kiến Uy:
- Tiểu đệ biết làm thế nào bây giờ, nên về cùng với hiền đệ hay viết thư về trước đã?
Kiến Uy đáp:
- Đơn nhị ca nói rất hợp tình, hợp lý. Bá mẫu mà biết đại huynh ở đây, lập tức yên tâm, bệnh tình tự nhiên sẽ khỏi, cũng không đòi đại huynh phải về ngay nữa đâu!
Thúc Bảo quay lại nói với Hùng Tín:
- Nếu thế, tiểu đệ xin viết thư gửi về để yên lòng thân mẫu.
Thúc Bảo viết xong thư, đưa kèm cả công văn cho Kiến Uy, nhờ nạp lại cho phủ đường Tế Châu. Hùng Tín quay vào nhà trong, lấy ra bốn tấm lụa Lộ Châu, ba mươi lạng bạc, gửi về biếu Tần mẫu, lại thêm hai tấm lụa Tô Châu, mười lạng bạc đưa tặng Kiến Uy. Ngay hôm đó, Kiến Uy từ biệt trở về Sơn Đông, đem thư từ, tiền bạc trình Tần mẫu, và nạp công văn cho phủ đường Tế Châu.
Hùng Tín vẫn giữ Thúc Bảo ở Nhị Hiền trang dưỡng sức. Hôm ấy Thúc Bảo đang nhàn rỗi trong thư phòng, xem hoa ngắm tuyết, Hùng Tín nói vào mấy câu chuyện phiếm, nhưng mặt mày ủ dột thảng thốt như có điều lo lắng.
Thúc Bảo thấy thế, sợ Hùng Tín chán khách rồi chăng, nhịn chẳng nổi, bèn hỏi:
- Nhị ca mọi hôm nói cười vui vẻ, hôm nay xem ra có điều gì không vui?
Hùng Tín đáp:
- Hiền đệ không biết, Hùng Tín này ít khi chợt vui, chợt buồn. Gần đây, vong huynh lỡ phải tên mà mất, Hùng Tín này mất ăn mất ngủ luôn mấy ngày, nhưng rồi mọi chuyện xếp dặt xong xuôi, coi như bỏ ngoài cửa. Nay lại gặp chuyện khó nói khác, vốn là chuyết thê 6 chẳng may mắc bệnh xoàng, thuốc thang vẫn chưa khỏi, vì vậy Hùng Tín này không khỏi có chút lo lắng.
Thúc Bảo hỏi:
- Quả là tiểu đệ quên hỏi nhị ca, nhị tẩu vốn thuộc tôn tộc nào, về Nhị Hiền trang này đã bao lâu?
Hùng Tín đáp:
- Chuyết thê vốn là cháu của đô dốc Thôi Trường Nhân, ngày xưa nhạc phụ cùng phụ thân Hùng Tín này đi lại với nhau thân thiết, chẳng bao lâu, cả phụ mẫu đều mất, gia cảnh khốn đốn, lúc này mới về Nhị Hiền trang. Cũng mừng là nàng vừa hiền vừa lanh lợi, có điều đã lấy nhau bảy tám năm nay mà chẳng sinh đẻ gì, mãi tới mùa xuân năm nay mới mang thai, tính ra thì tháng mười một này đã phải sinh, vì vậy có phần lo lắng không yên.
Thúc Bảo lựa lời an ủi:
- Tiểu đệ nghe các cụ ngày xưa nói, sinh con hổ, con lân thường không phải dễ. Phương chi, trời cũng lựa tướng mà trao điềm lành, theo thời tiết, dưa đến kỳ sẽ chín, nhị ca cũng chẳng nên lo lắng thái quá!
Trò chuyện chưa dứt, thấy đầy tớ vội vàng chạy vào thưa:
- Ngoài cửa có một nhà sư người Phiên 7 gõ cửa đòi bố thí, đuổi mấy cũng không đi.
Hùng Tín thấy nói thế liền cùng Thúc Báo ra xem, thì thấy một nhà sư người Phiên, mặc áo cà sa bằng lông thú đủ màu sắc rực rỡ, vai quảy một cây trượng dài, nhìn dáng người thì:
Hô sâu tròng mất
Nét rậm lông mày
Sống mũi cao như mỏ ưng bay
Râu tóc xoắn như bờm sư tử
Miệng lẩm bẩm đọc kinh niệm chú
Tay rung chuông, tay gõ phèng la
Tòa sen hiện Phật Thích Ca
Thiết Quài nhập xác, Lạt Ma giáng trần.
Hùng Tín hỏi:
- Sư trưởng định dùng cơm chay hay rượu thịt?
Nhà sư đáp:
- Ta không ăn chay!
Hùng Tín liền sai đầy tớ bưng ngay ra một đĩa thịt bò lớn, một đĩa bánh bao, đặt trước mặt nhà sư, rồi cùng Thúc Bảo ngồi bên xem xét. Nhà sư múa tít hai tay một lúc, thì cả hai đĩa đều sạch nhẵn.
Thấy thế Hùng Tín bèn hỏi:
- Bây giờ sư trưởng đi đâu?
Nhà sư đáp:
- Giờ bần tăng phải đi Thái Nguyên, rồi từ đó chuyển đường đi Tây Kinh.
Hùng Tín hỏi:
- Tây Kinh vốn là vùng đất hoang vu, trưởng lão là nhà tu hành, đến đó làm gì?
Nhà sư đáp:
- Nghe nói hiện nay chúa thượng mỏi mệt, công việc triều chính, đều giao cho Thái tử coi sóc. Thái tử là người ương ngạnh, không muốn yên ổn, cho nên bần tăng muốn tới Tây Kinh, hái dược liệu làm thuốc, dâng Thái tử.
Thúc Bảo hỏi:
- Thế hiện nay trong khăn gói trưởng lão, có loại thuốc nào đặc biệt chăng?
Nhà sư đáp:
- Tất cả các loại thuốc đều có.
Hùng Tín hỏi tiếp:
-Xin hỏi trưởng lão có thuốc điều kinh thôi sản, xin ột liều.
Nhà sư đáp:
- Có
Rồi lấy trong tay nải ra một cái hồ lô, dốc ra một viên thuốc chỉ bằng hạt đậu lớn, lấy một miếng giấy màu vàng gói lại, đưa cho
Hùng Tín dặn dò:
- Cầm lấy, bao giờ có trống điểm canh thì cho uống, dùng nước trầm hương mà tiêu, nếu uống xong mà sinh ngay là con gái, ngày hôm sau mới sinh nhất định là con trai.
Nói xong thì đứng dậy ra cửa, cũng chẳng một lời ơn nghĩa, nhìn theo, đã không thấy đâu nữa rồi. Hùng Tín kéo tay Thúc Bảo lại thư phòng. Thúc Bảo cảm thán:
- Chúa thượng bỏ bê chính sự, bốn bể giặc giã như ong dậy, đến nỗi mãi ở Phiên quốc đều hay. Tương lai chúng ta rồi sẽ thế nào đây nhị ca?
Hùng Tín đáp:
- Lo lắng chuyện ấy làm gì. Nếu như có biến đi nữa, bọn ta càng có điều kiện để mở mày mở mặt với thiên hạ, xây được cơ nghiệp cho bản thân. Chẳng hơn cứ dấm dúi qua ngày như thế này sao?
Nói xong, Hùng Tín bỏ vào nhà trong.
Đêm hôm đó, Hùng Tín lấy viên thuốc nhà sư người Phiên cho, đưa Thôi phu nhân uống. Đến đúng giữa giờ tý 8 bỗng thấy khắp nhà hương hoa sen thơm ngát, phu nhân liền sinh con gái, vì vậy đặt tên là ái Liên. Vợ chồng đều mừng rỡ khôn tả. Thúc Bảo được tin cũng rất hân hoan.
Thấm thoát quang âm, chẳng bao lâu đã tới ba mươi tết, Hùng Tín ngồi uống rượu với Thúc Bảo bên lò sưởi mãi tới sáng, chuyện trò đến quên cả cảnh tha hương, khách địa. Sáng mai ra đã là tháng giêng, năm thứ hai đời Nhân Thọ 9 rồi. Rượu uống mừng năm mới, Thúc Bảo nửa tỉnh nửa say nghĩ đến công nghiệp chưa thành, thân thế nổi trôi, xa mẹ, bỏ vợ con lòng vô cùng xốn xang.
Rượu rót mừng đuổi sầu đi
Sầu trông còn đó, rượu thì cạn không.
Rồi lại đến rượu của đêm nguyên tiêu, tết rằm tháng giêng. Hùng Tín suốt mấy tuần khó nhọc, nên đến chiều ngày mười tám, tháng giêng thì vì quá mệt mỏi, lui vào nhà sau nằm ngủ. Thúc Bảo vì nhớ người nhà, không thể nào ngủ được, chỉ đành quanh quẩn dạo dưới đèn. Mấy người đầy tớ trong trang trại, thấy thế bèn hỏi:
- Tần quý khách vẫn chưa đi nằm sao?
Thúc Bảo đáp:
- Ta thật nóng lòng muốn về Sơn Đông quá chừng. Nhưng vì hậu tình của viên ngoại, đến nổi mở miệng xin về cũng khó nói. Các người hãy chịu khó giúp ta ra về. Ta sẽ để lại một lá thư, tạ lỗi cùng viên ngoại.
Chỉ vì chủ nhà hiếu khách, nên bọn đầy tớ cũng rất ân cần, bèn thưa:
- Tần quý khách ở đây, chính là chẳng có nơi ở nào tốt hơn. Bọn tôi tớ chúng tôi, sao lại dám để Tần quý khách ra đi được!
Thúc Bảo bèn nói:
- Nếu thế, ta sẽ có cách!
Thế rối trong phòng nhìn ngang nằm ngửa, chỉ tay, gật đầu, như kiểu đang mưu tính gì. Bọn đầy tớ sợ giữ Thúc Bảo không xong, lỡ Thúc Bảo bỏ trốn mất, thì thật không biết trình với chủ thế nào, cho nên cả bọn bàn tính. kẻ thì ở lại hầu hạ trông chừng, kẻ vào nhà trong báo với chủ :
- Tần quý khách muốn về quê, thưa chủ nhân!
Hùng Tín nghe nói thế khoác áo, lê dép vội ra, hỏi:
- Hiền huynh nồi hứng muốn về chăng? Không phải vì Hùng Tín này đối xử khiếm khuyết gì chứ? Nếu quả thế thì thật đáng tội Hùng Tín này.
Thúc Bảo đáp:
- Tiểu đệ nôn nóng muốn về quê, ngày đêm không yên dạ, nhưng thấy nhị ca nặng tình, nặng nghĩa, nên không dám ngỏ lời. Nay thật không thể nào ở lại được nữa, ngồi đứng không yên, xin nhị ca tha tội!
Nói rồi rơi nước mắt, cảnh này, tình này thật hợp với bài "Tập Đường thi" 10 của đời sau:
Xuân về, đất khách vẫn lân la
Gặp tết, bâng khuâng lại nhớ nhà
Ôi hỡi, trông vời mây khói nọ
Dài sông xa núi não lòng ta!
Hùng Tín an ủi:
- Hiền huynh chẳng cần phải thương cảm đến thế. Ngày mai, Hùng Tín sẽ đưa hiền huynh lên đường về với bá mẫu. Đêm nay hãy xin ngủ một giấc thật ngon lành, sáng mai lên đường sớm.
Thúc Bảo vội hỏi:
- Có thật thế không?
Hùng Tín đáp:
- Hùng Tín một đời chẳng từng thay lời. Chẳng nhẽ lại định nói dối hiền huynh sao!
Nói rồi vào nhà trong sửa soạn. Thúc Bảo lại càng thấp thỏm, đứng ngồi không yên. Bọn đầy tớ đùa:
- Tần quý khách từ lúc được viên ngoại hứa cho về quê, mặt mày trông thật rạng rỡ hẳn.
Thúc Bảo cố tình lên giường nằm ngủ. Vì sao Hùng Tín phải giữ Thúc Bảo mãi đến nay mới cho về, thì ra từ ngày mùng một tháng mười, mua được con hoàng phiêu của Thúc Bảo, sau đó được Bá Đương, Huyền Thúy nói cho biết mọi chuyện, Hùng Tín liền gọi thợ yên ngựa giỏi, theo kích thước của con hoàng phiêu làm một bộ yên cương thật đẹp, khảm bạc, bịt đồng hẳn hoi, mãi tới tết nguyên tiêu vừa rồi mới xong, thật tinh xảo, ánh kim lấp lánh. Lại muốn tặng Thúc Bảo một số vốn lớn, nhưng chỉ sợ Thúc Bảo không chịu nhận, nên mới làm một cái khăn lớn phủ trùm lên yên ngựa. Phía sau cái khăn này là một cái túi lớn, bạc đánh thành từng thỏi dẹp bỏ vào túi buộc lại phía sau yên ngựa, không hề nói gì với Thúc Bảo về số bạc này, coi như chỉ khăn phủ trên yên mà thôi. Rồi mới dắt con hoàng phiêu ra, để Thúc Bảo thấy ngựa đã cường tráng, yên cương đầy đủ, sẵn sàng cho Thúc Bảo lên đường.
Thúc Bảo ý muốn tới Đông Nhạc chào Ngụy Trưng, Hùng Tín liền cho người mời Ngụy Trưng tới nhị Hiền trang. Chủ khách cũng ngồi vào bàn tiệc. Bàn bên bày ra mười tấm gấm Lộ Châu ngũ sắc, đủ để làm bốn chiếc áo bông lớn và năm mươi lạng bạc làm lộ phí.
Hùng Tín mời Thúc Bảo cạn một chén rượu, chỉ lễ vật trên bàn bên, nói:
- Đây là lễ mọn, xin hiền huynh nhận cho. Xin hiền huynh nhớ kỹ đừng quên câu "Cầu vinh bất tại chu môn hạ", nhé!
Ngụy Trưng tiếp lời:
- Thúc Bảo hiền huynh chịu nép dưới kẻ khác, làm tổn thương cả chí khí kẻ anh hùng. Huống chi, Ngụy Trưng này đã từng gặp bậc dị nhân mách rằng: chân chúa đã ra đời, nhà Tùy chẳng còn được bao lâu. Anh hùng như hiền huynh, nhất định phải là kẻ công thần khai quốc. Ngụy Trưng này, dẫu có khoác chiếc áo vàng của đạo sĩ, chẳng qua cũng để đợi thời mà hành động. Hiền huynh hãy nghe lời viên ngoại. Trời sinh ta có tài, đừng để uổng phí?
Thúc Bảo trong lòng thầm nghĩ: "Ngụy Trưng nói thế còn có lý. Còn Hùng Tín biết ta rất rõ, chỉ cần lưu lạc ở quê người vài tuần, đã trở thành kẻ khố rách ngay. Nay với mấy chục lạng bạc này, mà bảo ta đừng vào làm việc ở phủ đường nữa. Có ngờ đâu rằng, ta tuy làm việc ở phủ đường nhưng chỉ cần đi lại với bạn bè trên dưới, những chi phí lễ nghĩa, thì một năm cũng được mấy trăm lạng rồi! Thế mà Hùng Tín nói chuyện đâu đâu!". Thúc Bảo nghĩ vậy nhưng vẫn đáp lời Ngụy Trưng:
- Những lời vàng đá của các vị huynh trưởng, tiểu đệ xin ghi nhớ vào gan dạ. Lòng trở về như tên bắn, không thể uống nhiều.
Hùng Tín lấy chén, rót ba chén, cùng Thúc Bảo uống cạn. Ngụy Trưng cũng rót ba chén cùng uống với Thúc Bảo. Thúc Bảo nhận tặng vật của Hùng Tín, buộc vào sau yên, chắp tay vái biệt. Chính là:
Dùng dằng không nỡ rời tay
Rượu ngon mà chẳng dám say chén kề
Đốt lòng ta, nỗi nhớ quê
Nào đâu dám nhẹ chia ly buổi này.
Ra khỏi cửa vừa lên ngựa, Thúc Bảo đã kéo thẳng dây cương. Hoàng phiêu đã nhận ra chủ cũ, ngựa mạnh, người khỏe, đi một hơi đã thấy ba mươi dặm. Lúc này mới dừng cương, Thúc Bảo quay nhìn, thì thấy hành lý sau yên đã sa hẳn một bên. Nếu Thúc Bảo tự chuẩn bị hành lý, yên cương, thì đã cân đối, chắc chắn, nhưng đây lại là bọn đầy tớ của Hùng Tín buộc không chặt, nhất lại bạc nặng gói bên trong, ngựa chỉ cần phi một đoạn đã lỏng thêm rồi. Thúc Bảo trông thấy nghĩ thầm: "Buộc không chắc, bạn bè cho gì, rơi dọc đường hết, thật là phụ lòng tốt của bạn. Không được chậm, nhưng cũng không được sai sót, phía trước đã là thôn trấn nào đó, hãy nghỉ lại đêm nay. Sáng sớm canh năm, ta trở dậy buộc lại mọi thứ hãy đi, thì chẳng mất mát gì được nữa?" Thúc Bảo liền tìm vào quán trọ. Vùng này vốn là rừng Tạo Giác, cũng bởi vận hạn của Thúc Bảo chưa hết, nên vẫn phải còn một tai họa lớn nữa.
Chẳng biết tính mạng Thúc Bảo ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.
Tuyết đè quan ải cảnh nao nao
Gió bấc đưa về phủ trắng đầu
Nằm bẹp Lạc Dương hai gối nhác 1
Nhớ sôi Diễm Thủy một chèo mau 2
Bông sơ cuống quýt toan bay thốc
Bọt nước mong manh chực thổi vèo
Dừng ngựa Lam Quan chiều nghẽn lối 3
Tri âm gặp mặt thỏa lòng nhau.
Trên đây là một bài thơ vịnh cảnh tuyết, ca ngợi vẻ đẹp sự thanh cao của tuyết. Tuyết khiến chén rượu nóng uống càng đậm đà, tuyết khiến mối sầu của khách đi đường càng tăng vẻ thê lương, có khi tuyết gợi hứng, làm nguyên cớ của những gặp gỡ giữa bạn bè, tri kỷ, Kiến Uy rời Sơn Đông, qua Hà Đông, tìm vào phủ đường Lộ Châu, hỏi tin Thúc Bảo, trở ra quán trọ của Vương Tiểu Nhị, hỏi:
- Bác chủ xin hỏi bác một chuyện, gần đây có ai là người phủ Tế Châu, thuộc Sơn Đông, họ Tần, tên là Thúc Bảo, đến ở trọ quán bác không?
Tiểu Nhị đáp:
- Có Tần quý khách trọ ở hàng tiểu nhân, nhưng ngày mùng một tháng mười vừa rồi, đã bán ngựa lấy tiền đi đường, về quê ngay đêm hôm ấy rồi.
Kiến Uy nghe nói, thở dài rơi nước mắt. Còn Tiểu Nhị, vì khách trọ đông, gọi rối rít, đã bỏ đi từ lúc nào.
Liễu Thị thấy thế, bèn để ý, lại gần hỏi:
- Quý khách cho biết quý tính?
Kiến Uy đáp:
- Ta họ Phàn.
Liễu Thị tiếp:
- Có phải Phàn Kiến Uy chăng?
Kiến Uy tiến vội hỏi:
- Nhà chị sao lại biết ta là Phàn Kiến Uy.
Liễu Thị đáp.
- Tần quý khách vướng víu ở đây mãi, ngày ngày trông đợi Phàn quý khách. Chúng tôi đối xử với Tần quý khách chẳng được chu đáo. Tối hôm đầu tháng mười vừa rồi, Tần quý khách đã lên đường về. Lại có chuyện chưa đến nhà sao?
Kiến Uy:
- Chính vì chưa thấy về, nên ta phải đi tìm.
Kiến Uy thầm nghĩ: "Giờ đã là đầu mùa đông, không thể có chuyện đi đường đến hai tháng, nhất định xảy ra việc gì. Có ở lại đây cũng vô ích". Kiến Uy ăn bữa cơm trưa, trả tiền chu đáo rồi ra cửa đông, quay về Sơn Đông.
Trời thổi gió mạnh, tuyết đồ càng dày, Kiến Uy dầm trong gió tuyết, đầu cổ trùm kín, cứ trong tuyết mà đi mãi, lạnh cứng cả mặt mũi, hai tay, nhìn bốn bên chỉ thấy:
Tung bay trút từ trên ải bắc
Phơi phơi rơi rắc khắp cô thành
Vườn Lương cầu Bá quanh quanh
Quật lên úp xuống thình lình dừng quay
Như có sức đổi thay tạo hóa
Như có tài tuốt lá nhổ cây
Vừng hồng tối sẫm mặt mày
Rừng xanh nhạt sắc, đông tây lạc đường
Dòng Trường Giang, cá dường lặn đáy
Tầng mây cao, cánh sẩy nhạn xa
Cọp gầm vượn hú xa xa
Lúa đồng vùi nát, hoa nhà dập tan
Kể sao xiết muôn vàn tai hại
Điềm lành sao, địa quái thiên tai?
Cằn gốc liễu, trụi cành mai
Đường xa lối nghẽn, đền đài phôi pha
Phủ đầy cửa ra vào quán lạ
Nguồn cơn này hồ đã biết vay!
Buôn lắm thay, khổ lắm thay
Cảnh nhà hàn sĩ đắng cay thế nào
Cầu khẩn đến trời cao giáng phúc
Tâu Ngọc Hoàng chí đức chí nhân
Mây thiêng kíp kíp xoay vần
Vừng dương sáng chói, khí xuân chan hòa
An cư lạc nghiệp, câu ca. . .
Kiến Uy lặn lội trong cảnh gió tuyết, rét thấu xương, đến được Thập Lý điếm thì trời cũng đã chiều. Chưa biết ngủ trọ nơi nào, lại cũng tìm đến miếu Đông Nhạc, nơi Thúc Bảo bị ốm mấy tuần trước. Cho nên nếu không có trận tuyết lớn này, làm gì Kiến Uy phải vào miếu Đông Nhạc này. Gặp đúng lúc ông từ đứng đó đóng cửa, thấy có người đến xin nghỉ trọ, ông từ liền vào Tùng Hạc hiên thưa. Ngụy Trưng vốn thương người, liền cho Kiến Uy vào phòng phía sau. Đặt hành lý vào một góc, rũ hết tuyết trên áo mũ, Kiến Uy vái chào Ngụy Trưng. Ngụy Trưng lúc này mới hỏi:
- Khách trọ đâu đến?
Kiến Uy đáp:
- Tiểu đệ họ Phàn, người Tế Châu thuộc Sơn Đông đến Lộ Châu tìm người bạn, gặp tuyết lớn, vào đây xin nhờ đạo trưởng qua đêm nay, sáng ra sẽ xin hậu tạ.
Nguy Trưng đáp:
- Khách có phải Phàn Kiến Uy chăng?
Kiến Uy giật mình vội hỏi:
- Đạo trưởng sao lại biết tiểu đệ?
Ngụy Trưng đáp:
- Thúc Bảo hiền huynh thường hay nói đến tên khách.
Kiến Uy vui mừng hỏi tiếp:
- Thúc Bảo hiện ở đâu?
Ngụy Trưng đáp:
- Khách đừng vội vàng thế! Nhanh hay chậm thì cũng chỉ gặp mặt Thúc Bảo thôi.
Kiến Uy vẫn dồn dập:
- Thúc Bảo đâu rồi!
Ngụy Trưng từ từ:
- Ngày mùng hai tháng mười, Thúc Bảo đến đây nhưng bị ốm nặng.
Kiến Uy dậm chân:
- Thế là thế nào? Hiện đâu rồi?
Ngụy Trưng vẫn thong thả:
- Ngày mười lăm tháng mười, Đơn viên ngoại đưa về Nhị Hiền trang để dưỡng bệnh. Đến mười lăm tháng mười một thì bệnh đã khỏi, có đến tạ ơn ở miếu này, nhưng vì trời lạnh nên vẫn ở Nhị
Hiền trang, Đơn viên ngoại giữ chưa cho về.
Kiến Uy nghe đến đây mới yên tâm. Chính là:
Tráng sĩ được vàng ngàn lạng
Hàn nho tên rạng tam nguyên
Đêm động phòng hoa chúc như tiên
Buổi họp mặt thân quen rạng rỡ
Như hùm thêm cánh vỗ
Như rồng gặp sấm ran
Lão nông được trận mưa tràn
Tuổi già thêm cành đan quế. 4
Ngụy Trưng sai lấy trà rượu, hoa quả, ngồi tiếp Kiến Uy. Kiến Uy vì suốt ngày xông pha ngoài gió tuyết, người mệt mỏi, nên cũng uống khá nhiều rượu nóng, rồi ngủ kỹ. Mới sáng mai ra Kiến Uy đã trở dậy, mở hành lý, lấy bạc tạ ơn Ngụy Trưng. Nhưng biết là bạn Thúc Bảo, Ngụy Trưng nhất định không chịu nhận, lại giữ Kiến Uy lại dùng bữa sáng, rồi đưa ra khỏi cửa tam quan, chỉ đường tắt về Nhị Hiền trang, Kiến Uy cứ theo thế mà đi.
Lúc này Hùng Tín cùng Thúc Bảo đang ngồi trong thư phòng sưởi ấm, uống rượu, thưởng cảnh tuyết bên ngoài rất là thích ý. Đầy tớ vào thưa có ông khách xưng là họ Phàn, đem thư của Tần mẫu tới.
Thúc Bảo vui mừng:
- Đơn nhị ca, lão thân cho Kiến Uy đem thư tới rồi!
Hai người vội chạy ra đón. Thúc Bảo vui mừng reo lên:
- Đúng là hiền đệ rồi!
Kiến Uy cũng vội nói:
- Lần ấy chia hành lý, tiền bạc đều ở chỗ tiểu đệ, quên không chia. Tiểu đệ đã đưa lại cho bá mẫu, nhưng bá mẫu nhất định không cầm, bảo tiểu đệ giữ làm lộ phí để đi tìm đại huynh.
Thúc Bảo nói:
- Tiền bạc chẳng có bên mình, bao nhiêu chuyện rầy rà xảy ra.
Hùng Tín bàn:
- Những chuyện ấy khoan nói, hãy xin mời vào nhà đã!
Hùng Tín gọi đầy tớ cất hành lý, còn mình thì dẫn Kiến Uy vào thư phòng sưởi ấm. Hai bên lúc này mới làm lễ chủ khách. Thúc Bảo cũng chắp tay vái tạ Kiến Uy đã khó nhọc vì mình. Hùng Tín sai người nhà bày tiệc rượu. Thúc Bảo hỏi:
- Thân mẫu tiểu đệ sức khoẻ ra sao?
Kiến Uy đáp:
- Có thư của bá mẫu, đại huynh cứ xem sẽ rõ!
Thúc Bảo xem thư xong. Nước mắt chan hòa, lặng lẽ đứng đậy, thu xếp hành lý.
Một thư chữ mẹ đầy mong nhớ
Muôn dặm lòng con nỗi xốn xang.
Hùng Tín thấy thế, cứ yên lặng khẽ cười. Tiệc rượu đã bày ra, ba người cùng ngồi, gối kề gối, vai sát vai. Hùng Tín hỏi:
- Thúc Bảo, lệnh đường có khỏe không?
Thúc Bảo đáp:
- Thân mẫu hiện ốm nặng!
Hùng Tín hỏi:
- Thấy hiền huynh chuẩn bị hành lý, có lẽ định về Sơn Đông, ngay chăng?
Thúc Bảo chùi nước mắt đáp:
- Không phải tiểu đệ là kẻ vô ơn, ăn no rồi ưỡn bụng ra đi. Nhưng quả tình mẫu thân bệnh nặng, xin tạm biệt nhị ca. Sang năm sẽ quay lại xin tạ ơn tái tạo của nhị ca.
Hùng Tín đáp:
- Hiền huynh trở về, Hùng Tín này không dám ngăn trở. Nhưng đã là bạn bè thì phải làm cho nhau trở nên hoàn thiện hơn. Thần trung con hiếu, đời nào không có. Nhưng cần phải làm kẻ có lòng thành thực, chứ không phải để mua cái danh tiếng bề ngoài thôi!
Thúc Bảo hỏi:
- Xin nhị ca dạy cho. Thế nào là hiếu thật, thế nào là hiếu giả?
Hùng Tín đáp:
- Kẻ có hiếu lớn là hiếu thật, kẻ chỉ chăm sự hiếu nhỏ là hiếu giả. Vội vàng làm theo ý mình là hiếu giả. Cũng như bây giờ, hiền huynh ngày đêm lặn lội về quê, có vẻ là hiếu thật, nhưng thật ra là hiếu giả.
Thúc Bảo nước mắt lúc này đã khô, bất giác khẽ cười hỏi:
- Tiểu đệ gặp lúc vừa nghèo túng, vừa bệnh tật không nơi nương tựa xa cách thân mẫu đã lâu ngày, cũng là sự bất đắc dĩ, nay nghe thân mẫu bệnh nặng, ngày đêm trở về, cũng là sự chí tình của kẻ làm con, sao lại nói là hiếu nhỏ, hiếu giả được?
Kiến Uy đỡ lời cho Thúc Bảo rằng:
- Tần đại huynh nghe tin thân mẫu ốm là một lẽ, lẽ thứ hai là thân mẫu bệnh phải trở về ngay, nên vội lên đường, đó chính là hiếu lớn còn gì!
Hùng Tín giải thích:
- Chư huynh biết một mà không biết hai. Lệnh tiên quân 5 làm tướng nhà Bắc Tề, Bắc Tề mất, thân vong, những cái đó đều có nghĩa lớn, đại thần của một nước sắp mất, không thể tính đến chuyện sống còn của mình. Nhưng trời không nỡ nhìn thấy bậc trung thần tuyệt hậu, nên vẫn còn để lại cái vẻ anh hùng của hiền huynh. Hiện giờ chính là hiền huynh giữ lấy thân mình, chờ ngày lập nên sự nghiệp lẫy lừng, rạng rỡ họ Tần. Nay hiền huynh xông pha mưa tuyết gió lạnh, bệnh vừa mới đỡ, nếu giữa đường bệnh trở lại, nguyên khí không thể giữ nổi, vạn nhất có lúc hai là dài, ba là ngắn, đến nỗi mất cả kẻ nối dõi họ Tần, mất cả sự kỳ vọng suốt đời của bá mẫu, thì dù cho là chí tình, nhưng vẫn không phải là đạo hiếu. Kẻ quân tử đi, nhưng không chịu đi đường tắt, ngồi thuyền chứ không chịu bơi tay không, dù gặp lúc phải đi vội, nhưng cũng không dám quên chữ hiếu. Xông pha trong tuyết lớn như thế. Hùng Tín này không dám nghe theo vậy!
Thúc Bảo bèn hỏi:
- Nếu thế thì tiểu đệ không về nữa, mới là hiếu hay sao?
Hùng Tín cười đáp:
- Ai bảo hiền huynh không về. Chẳng qua chỉ là hãy biết chờ thêm ít lâu. Vả lại bá mẫu là bậc hiền thục, hiểu mọi lý lẽ. Nay nhờ Kiến Uy đi tìm hiền huynh, cũng chỉ vì lòng yêu con của người mẹ, không hiểu tình cảnh con mình ra sao, không thể ngồi yên. Nay hiền huynh viết một phong thư, kể cả rõ việc lãnh công văn lâu ra làm sao, đang khi trở về thì ngã bệnh làm sao, đến này thì đã khỏi hắn, nhưng vẫn chưa thể dãi tuyết dầm sương, nghe mẫu thân ốm nặng bảo về ngay, nhưng Hùng Tín này giữ lại chưa cho về. Lệnh đường thấy hiện huynh đã có nơi chốn dưỡng bệnh, thì sầu não càng vơi dần, biết rõ bệnh tình của hiền huynh chưa thật khỏi, cũng không lòng nào để con dầm sương tuyết. Hùng Tín này với hiền huynh đã là "Nhất bái chi giao", mẫu thân của hiền huynh cũng là mẫu thân của Hùng Tín này, ta sẽ sắm ít lễ vật, gửi về an ủi bá mẫu, nhờ luôn Kiến Uy đem theo công văn về nạp cho phủ đường Tế Châu, trình rõ với Lưu thái thú, ốm đau ở Lộ Châu thế nào, đến nỗi hiền huynh chưa về được. Thế là việc công việc tư đều đầy đủ. Đợi đến ngày xuân nắng ấm, lúc đó Hùng Tín sẽ vì hiền huynh mà kiếm ít vốn liếng, để khi hiền huynh trở về, không thèm làm công sai ở phủ đường nữa. "Cầu vinh bất tại chu môn hạ" . Làm các việc này, luôn bị sai phái, mất cả tự do, để đến nỗi bá mẫu ngày ngày trông đợi, lo lắng, thật không tròn đạo hiếu vậy! Ngồi đợi thời, không phải là không có hiếu đâu!
Thúc Bảo nghe Hùng Tín nói có tình có lý, lại cũng thấy mình chưa dãi dầu tuyết lạnh, đường xá xa xôi, bèn nói với Kiến Uy:
- Tiểu đệ biết làm thế nào bây giờ, nên về cùng với hiền đệ hay viết thư về trước đã?
Kiến Uy đáp:
- Đơn nhị ca nói rất hợp tình, hợp lý. Bá mẫu mà biết đại huynh ở đây, lập tức yên tâm, bệnh tình tự nhiên sẽ khỏi, cũng không đòi đại huynh phải về ngay nữa đâu!
Thúc Bảo quay lại nói với Hùng Tín:
- Nếu thế, tiểu đệ xin viết thư gửi về để yên lòng thân mẫu.
Thúc Bảo viết xong thư, đưa kèm cả công văn cho Kiến Uy, nhờ nạp lại cho phủ đường Tế Châu. Hùng Tín quay vào nhà trong, lấy ra bốn tấm lụa Lộ Châu, ba mươi lạng bạc, gửi về biếu Tần mẫu, lại thêm hai tấm lụa Tô Châu, mười lạng bạc đưa tặng Kiến Uy. Ngay hôm đó, Kiến Uy từ biệt trở về Sơn Đông, đem thư từ, tiền bạc trình Tần mẫu, và nạp công văn cho phủ đường Tế Châu.
Hùng Tín vẫn giữ Thúc Bảo ở Nhị Hiền trang dưỡng sức. Hôm ấy Thúc Bảo đang nhàn rỗi trong thư phòng, xem hoa ngắm tuyết, Hùng Tín nói vào mấy câu chuyện phiếm, nhưng mặt mày ủ dột thảng thốt như có điều lo lắng.
Thúc Bảo thấy thế, sợ Hùng Tín chán khách rồi chăng, nhịn chẳng nổi, bèn hỏi:
- Nhị ca mọi hôm nói cười vui vẻ, hôm nay xem ra có điều gì không vui?
Hùng Tín đáp:
- Hiền đệ không biết, Hùng Tín này ít khi chợt vui, chợt buồn. Gần đây, vong huynh lỡ phải tên mà mất, Hùng Tín này mất ăn mất ngủ luôn mấy ngày, nhưng rồi mọi chuyện xếp dặt xong xuôi, coi như bỏ ngoài cửa. Nay lại gặp chuyện khó nói khác, vốn là chuyết thê 6 chẳng may mắc bệnh xoàng, thuốc thang vẫn chưa khỏi, vì vậy Hùng Tín này không khỏi có chút lo lắng.
Thúc Bảo hỏi:
- Quả là tiểu đệ quên hỏi nhị ca, nhị tẩu vốn thuộc tôn tộc nào, về Nhị Hiền trang này đã bao lâu?
Hùng Tín đáp:
- Chuyết thê vốn là cháu của đô dốc Thôi Trường Nhân, ngày xưa nhạc phụ cùng phụ thân Hùng Tín này đi lại với nhau thân thiết, chẳng bao lâu, cả phụ mẫu đều mất, gia cảnh khốn đốn, lúc này mới về Nhị Hiền trang. Cũng mừng là nàng vừa hiền vừa lanh lợi, có điều đã lấy nhau bảy tám năm nay mà chẳng sinh đẻ gì, mãi tới mùa xuân năm nay mới mang thai, tính ra thì tháng mười một này đã phải sinh, vì vậy có phần lo lắng không yên.
Thúc Bảo lựa lời an ủi:
- Tiểu đệ nghe các cụ ngày xưa nói, sinh con hổ, con lân thường không phải dễ. Phương chi, trời cũng lựa tướng mà trao điềm lành, theo thời tiết, dưa đến kỳ sẽ chín, nhị ca cũng chẳng nên lo lắng thái quá!
Trò chuyện chưa dứt, thấy đầy tớ vội vàng chạy vào thưa:
- Ngoài cửa có một nhà sư người Phiên 7 gõ cửa đòi bố thí, đuổi mấy cũng không đi.
Hùng Tín thấy nói thế liền cùng Thúc Báo ra xem, thì thấy một nhà sư người Phiên, mặc áo cà sa bằng lông thú đủ màu sắc rực rỡ, vai quảy một cây trượng dài, nhìn dáng người thì:
Hô sâu tròng mất
Nét rậm lông mày
Sống mũi cao như mỏ ưng bay
Râu tóc xoắn như bờm sư tử
Miệng lẩm bẩm đọc kinh niệm chú
Tay rung chuông, tay gõ phèng la
Tòa sen hiện Phật Thích Ca
Thiết Quài nhập xác, Lạt Ma giáng trần.
Hùng Tín hỏi:
- Sư trưởng định dùng cơm chay hay rượu thịt?
Nhà sư đáp:
- Ta không ăn chay!
Hùng Tín liền sai đầy tớ bưng ngay ra một đĩa thịt bò lớn, một đĩa bánh bao, đặt trước mặt nhà sư, rồi cùng Thúc Bảo ngồi bên xem xét. Nhà sư múa tít hai tay một lúc, thì cả hai đĩa đều sạch nhẵn.
Thấy thế Hùng Tín bèn hỏi:
- Bây giờ sư trưởng đi đâu?
Nhà sư đáp:
- Giờ bần tăng phải đi Thái Nguyên, rồi từ đó chuyển đường đi Tây Kinh.
Hùng Tín hỏi:
- Tây Kinh vốn là vùng đất hoang vu, trưởng lão là nhà tu hành, đến đó làm gì?
Nhà sư đáp:
- Nghe nói hiện nay chúa thượng mỏi mệt, công việc triều chính, đều giao cho Thái tử coi sóc. Thái tử là người ương ngạnh, không muốn yên ổn, cho nên bần tăng muốn tới Tây Kinh, hái dược liệu làm thuốc, dâng Thái tử.
Thúc Bảo hỏi:
- Thế hiện nay trong khăn gói trưởng lão, có loại thuốc nào đặc biệt chăng?
Nhà sư đáp:
- Tất cả các loại thuốc đều có.
Hùng Tín hỏi tiếp:
-Xin hỏi trưởng lão có thuốc điều kinh thôi sản, xin ột liều.
Nhà sư đáp:
- Có
Rồi lấy trong tay nải ra một cái hồ lô, dốc ra một viên thuốc chỉ bằng hạt đậu lớn, lấy một miếng giấy màu vàng gói lại, đưa cho
Hùng Tín dặn dò:
- Cầm lấy, bao giờ có trống điểm canh thì cho uống, dùng nước trầm hương mà tiêu, nếu uống xong mà sinh ngay là con gái, ngày hôm sau mới sinh nhất định là con trai.
Nói xong thì đứng dậy ra cửa, cũng chẳng một lời ơn nghĩa, nhìn theo, đã không thấy đâu nữa rồi. Hùng Tín kéo tay Thúc Bảo lại thư phòng. Thúc Bảo cảm thán:
- Chúa thượng bỏ bê chính sự, bốn bể giặc giã như ong dậy, đến nỗi mãi ở Phiên quốc đều hay. Tương lai chúng ta rồi sẽ thế nào đây nhị ca?
Hùng Tín đáp:
- Lo lắng chuyện ấy làm gì. Nếu như có biến đi nữa, bọn ta càng có điều kiện để mở mày mở mặt với thiên hạ, xây được cơ nghiệp cho bản thân. Chẳng hơn cứ dấm dúi qua ngày như thế này sao?
Nói xong, Hùng Tín bỏ vào nhà trong.
Đêm hôm đó, Hùng Tín lấy viên thuốc nhà sư người Phiên cho, đưa Thôi phu nhân uống. Đến đúng giữa giờ tý 8 bỗng thấy khắp nhà hương hoa sen thơm ngát, phu nhân liền sinh con gái, vì vậy đặt tên là ái Liên. Vợ chồng đều mừng rỡ khôn tả. Thúc Bảo được tin cũng rất hân hoan.
Thấm thoát quang âm, chẳng bao lâu đã tới ba mươi tết, Hùng Tín ngồi uống rượu với Thúc Bảo bên lò sưởi mãi tới sáng, chuyện trò đến quên cả cảnh tha hương, khách địa. Sáng mai ra đã là tháng giêng, năm thứ hai đời Nhân Thọ 9 rồi. Rượu uống mừng năm mới, Thúc Bảo nửa tỉnh nửa say nghĩ đến công nghiệp chưa thành, thân thế nổi trôi, xa mẹ, bỏ vợ con lòng vô cùng xốn xang.
Rượu rót mừng đuổi sầu đi
Sầu trông còn đó, rượu thì cạn không.
Rồi lại đến rượu của đêm nguyên tiêu, tết rằm tháng giêng. Hùng Tín suốt mấy tuần khó nhọc, nên đến chiều ngày mười tám, tháng giêng thì vì quá mệt mỏi, lui vào nhà sau nằm ngủ. Thúc Bảo vì nhớ người nhà, không thể nào ngủ được, chỉ đành quanh quẩn dạo dưới đèn. Mấy người đầy tớ trong trang trại, thấy thế bèn hỏi:
- Tần quý khách vẫn chưa đi nằm sao?
Thúc Bảo đáp:
- Ta thật nóng lòng muốn về Sơn Đông quá chừng. Nhưng vì hậu tình của viên ngoại, đến nổi mở miệng xin về cũng khó nói. Các người hãy chịu khó giúp ta ra về. Ta sẽ để lại một lá thư, tạ lỗi cùng viên ngoại.
Chỉ vì chủ nhà hiếu khách, nên bọn đầy tớ cũng rất ân cần, bèn thưa:
- Tần quý khách ở đây, chính là chẳng có nơi ở nào tốt hơn. Bọn tôi tớ chúng tôi, sao lại dám để Tần quý khách ra đi được!
Thúc Bảo bèn nói:
- Nếu thế, ta sẽ có cách!
Thế rối trong phòng nhìn ngang nằm ngửa, chỉ tay, gật đầu, như kiểu đang mưu tính gì. Bọn đầy tớ sợ giữ Thúc Bảo không xong, lỡ Thúc Bảo bỏ trốn mất, thì thật không biết trình với chủ thế nào, cho nên cả bọn bàn tính. kẻ thì ở lại hầu hạ trông chừng, kẻ vào nhà trong báo với chủ :
- Tần quý khách muốn về quê, thưa chủ nhân!
Hùng Tín nghe nói thế khoác áo, lê dép vội ra, hỏi:
- Hiền huynh nồi hứng muốn về chăng? Không phải vì Hùng Tín này đối xử khiếm khuyết gì chứ? Nếu quả thế thì thật đáng tội Hùng Tín này.
Thúc Bảo đáp:
- Tiểu đệ nôn nóng muốn về quê, ngày đêm không yên dạ, nhưng thấy nhị ca nặng tình, nặng nghĩa, nên không dám ngỏ lời. Nay thật không thể nào ở lại được nữa, ngồi đứng không yên, xin nhị ca tha tội!
Nói rồi rơi nước mắt, cảnh này, tình này thật hợp với bài "Tập Đường thi" 10 của đời sau:
Xuân về, đất khách vẫn lân la
Gặp tết, bâng khuâng lại nhớ nhà
Ôi hỡi, trông vời mây khói nọ
Dài sông xa núi não lòng ta!
Hùng Tín an ủi:
- Hiền huynh chẳng cần phải thương cảm đến thế. Ngày mai, Hùng Tín sẽ đưa hiền huynh lên đường về với bá mẫu. Đêm nay hãy xin ngủ một giấc thật ngon lành, sáng mai lên đường sớm.
Thúc Bảo vội hỏi:
- Có thật thế không?
Hùng Tín đáp:
- Hùng Tín một đời chẳng từng thay lời. Chẳng nhẽ lại định nói dối hiền huynh sao!
Nói rồi vào nhà trong sửa soạn. Thúc Bảo lại càng thấp thỏm, đứng ngồi không yên. Bọn đầy tớ đùa:
- Tần quý khách từ lúc được viên ngoại hứa cho về quê, mặt mày trông thật rạng rỡ hẳn.
Thúc Bảo cố tình lên giường nằm ngủ. Vì sao Hùng Tín phải giữ Thúc Bảo mãi đến nay mới cho về, thì ra từ ngày mùng một tháng mười, mua được con hoàng phiêu của Thúc Bảo, sau đó được Bá Đương, Huyền Thúy nói cho biết mọi chuyện, Hùng Tín liền gọi thợ yên ngựa giỏi, theo kích thước của con hoàng phiêu làm một bộ yên cương thật đẹp, khảm bạc, bịt đồng hẳn hoi, mãi tới tết nguyên tiêu vừa rồi mới xong, thật tinh xảo, ánh kim lấp lánh. Lại muốn tặng Thúc Bảo một số vốn lớn, nhưng chỉ sợ Thúc Bảo không chịu nhận, nên mới làm một cái khăn lớn phủ trùm lên yên ngựa. Phía sau cái khăn này là một cái túi lớn, bạc đánh thành từng thỏi dẹp bỏ vào túi buộc lại phía sau yên ngựa, không hề nói gì với Thúc Bảo về số bạc này, coi như chỉ khăn phủ trên yên mà thôi. Rồi mới dắt con hoàng phiêu ra, để Thúc Bảo thấy ngựa đã cường tráng, yên cương đầy đủ, sẵn sàng cho Thúc Bảo lên đường.
Thúc Bảo ý muốn tới Đông Nhạc chào Ngụy Trưng, Hùng Tín liền cho người mời Ngụy Trưng tới nhị Hiền trang. Chủ khách cũng ngồi vào bàn tiệc. Bàn bên bày ra mười tấm gấm Lộ Châu ngũ sắc, đủ để làm bốn chiếc áo bông lớn và năm mươi lạng bạc làm lộ phí.
Hùng Tín mời Thúc Bảo cạn một chén rượu, chỉ lễ vật trên bàn bên, nói:
- Đây là lễ mọn, xin hiền huynh nhận cho. Xin hiền huynh nhớ kỹ đừng quên câu "Cầu vinh bất tại chu môn hạ", nhé!
Ngụy Trưng tiếp lời:
- Thúc Bảo hiền huynh chịu nép dưới kẻ khác, làm tổn thương cả chí khí kẻ anh hùng. Huống chi, Ngụy Trưng này đã từng gặp bậc dị nhân mách rằng: chân chúa đã ra đời, nhà Tùy chẳng còn được bao lâu. Anh hùng như hiền huynh, nhất định phải là kẻ công thần khai quốc. Ngụy Trưng này, dẫu có khoác chiếc áo vàng của đạo sĩ, chẳng qua cũng để đợi thời mà hành động. Hiền huynh hãy nghe lời viên ngoại. Trời sinh ta có tài, đừng để uổng phí?
Thúc Bảo trong lòng thầm nghĩ: "Ngụy Trưng nói thế còn có lý. Còn Hùng Tín biết ta rất rõ, chỉ cần lưu lạc ở quê người vài tuần, đã trở thành kẻ khố rách ngay. Nay với mấy chục lạng bạc này, mà bảo ta đừng vào làm việc ở phủ đường nữa. Có ngờ đâu rằng, ta tuy làm việc ở phủ đường nhưng chỉ cần đi lại với bạn bè trên dưới, những chi phí lễ nghĩa, thì một năm cũng được mấy trăm lạng rồi! Thế mà Hùng Tín nói chuyện đâu đâu!". Thúc Bảo nghĩ vậy nhưng vẫn đáp lời Ngụy Trưng:
- Những lời vàng đá của các vị huynh trưởng, tiểu đệ xin ghi nhớ vào gan dạ. Lòng trở về như tên bắn, không thể uống nhiều.
Hùng Tín lấy chén, rót ba chén, cùng Thúc Bảo uống cạn. Ngụy Trưng cũng rót ba chén cùng uống với Thúc Bảo. Thúc Bảo nhận tặng vật của Hùng Tín, buộc vào sau yên, chắp tay vái biệt. Chính là:
Dùng dằng không nỡ rời tay
Rượu ngon mà chẳng dám say chén kề
Đốt lòng ta, nỗi nhớ quê
Nào đâu dám nhẹ chia ly buổi này.
Ra khỏi cửa vừa lên ngựa, Thúc Bảo đã kéo thẳng dây cương. Hoàng phiêu đã nhận ra chủ cũ, ngựa mạnh, người khỏe, đi một hơi đã thấy ba mươi dặm. Lúc này mới dừng cương, Thúc Bảo quay nhìn, thì thấy hành lý sau yên đã sa hẳn một bên. Nếu Thúc Bảo tự chuẩn bị hành lý, yên cương, thì đã cân đối, chắc chắn, nhưng đây lại là bọn đầy tớ của Hùng Tín buộc không chặt, nhất lại bạc nặng gói bên trong, ngựa chỉ cần phi một đoạn đã lỏng thêm rồi. Thúc Bảo trông thấy nghĩ thầm: "Buộc không chắc, bạn bè cho gì, rơi dọc đường hết, thật là phụ lòng tốt của bạn. Không được chậm, nhưng cũng không được sai sót, phía trước đã là thôn trấn nào đó, hãy nghỉ lại đêm nay. Sáng sớm canh năm, ta trở dậy buộc lại mọi thứ hãy đi, thì chẳng mất mát gì được nữa?" Thúc Bảo liền tìm vào quán trọ. Vùng này vốn là rừng Tạo Giác, cũng bởi vận hạn của Thúc Bảo chưa hết, nên vẫn phải còn một tai họa lớn nữa.
Chẳng biết tính mạng Thúc Bảo ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.
Danh sách chương