Ngày hôm sau, họ đi đến một ngôi làng, dường như có một điều gì đó không bình thường đang diễn ra ở đây. Một điềm xấu. Mùi khói của gỗ cháy trên các bếp lửa đã không còn. Có một thứ mùi khác: mùi của chết chóc và mục rữa. Đêm xuống nhanh chóng, nhưng những con ngựa đã luôn ở trong bóng tối. Xung quanh không có một tia sáng nào. Cả ngôi làng chìm ngập trong sự im lặng đáng sợ.
Timoken không muốn dừng lại ở đây. Cậu đang lo lắng cho mười một đứa trẻ, cậu chỉ muốn nhanh chóng tìm thấy chúng trước khi trời tối hẳn. Nhưng Gabar thì lại cần được nghỉ ngoi. Nó nhìn thấy một cái máng nước bằng đá bên dưới chiếc vòi bơm đặt ngay trung tâm ngôi làng, Gabar đi thẳng đến đó. Nó đang chực cúi đầu xuống uống nước, thì Timoken kéo dây cương ngăn lại, không cho con lạc đà chạm vào máng nước.
Con lạc đà giận dỗi nói: “Tôi khát lắm rồi. Tại sao cậu không để tôi uống nước chứ?”
“Nhìn xuống nước kìa, Gabar! Nhìn đi!”
Dưới ánh sáng từ ngọn đèn của Timoken, mặt nước trở nên óng ánh. Với Gabar, nước mới mát ngọt làm sao.
“Có chuyện gì thế?” Edern nhìn khắp lượt Timoken. “Tại sao cậu không cho con lạc đà uống nước?”
“Bởi vì, có ai đó đã bỏ thuốc độc vào nước.” Ngay khi đã nói ra, Timoken nhận ra rằng, Edern không thể nhìn thấy lớp sương mù mỏng, màu xanh đang bao trùm lấy mặt nước, trong nước có cả những sinh vật nhò xíu với hình thù kỳ lạ. Chúng đang cười với Timoken, khuôn mặt gian xảo của chúng quá ư hiểm ác.
“Làm sao cậu biết được?” Edern thắc mắc. “Làm sao cậu biết giếng nước đã bị đầu độc?”
“Tôi có thể nhìn thấy chúng,” Timoken giải thích thật đơn giản.
“Chúng là ai?”
“Ma quỷ.”
Giờ thì Gabar có thể cảm nhận được có gi đó bất an đang diễn ra. Nó không thể nhìn thấy những sinh vật đó, nhưng nó cảm nhận được chúng, nó bắt đầu lùi lại.
Edern vẫn không thấy gì cả, nhưng cậu tin vào lời nói của Timoken. “Vậy chúng ta phải làm sao đây?”
“Có lẽ cả ngôi làng này đã bị đầu độc rồi,” giọng Timoken trầm ngâm. “Có lẽ, họ đã chết hết rồi, nhưng biết đâu còn người nào sống sót quanh đây.”
Edern nhìn những ngôi nhà xung quanh, tất cả đều chìm trong bóng tối và sự tĩnh lặng. “Chúng ta có nên vào nhà xem không?” giọng nói cậu xen lẫn chút sợ hãi.
“Bắt buộc đấy.”
Gabar quỳ xuống cho hai cậu bé leo xuống đất. Căn nhà đầu tiên hai cậu bước vào khá là trống trải. Căn nhà kế tiếp cũng thế. Trong cả hai căn nhà, đồ ăn đang được bày trên bàn, có cả bình nước và một vài cái cốc. Bình nước trống rỗng, cả những cái cốc cũng thê”. Khi họ đi đến ngôi nhà thứ ba, vẫn một viễn cảnh gần giống như thế hiện ra, họ bắt đầu nghĩ rằng, có lẽ những người dân làng đã khiếp sợ bỏ trốn hết, và có lẽ họ đã không bị đầu độc.
Timoken quay trở lại máng nước. Cậu buộc mình nhìn xuống mặt nước một lần nữa. Những sinh vật ma quỷ nhỏ xíu ấy vẫn còn, chúng đang bơi trong nước như những hạt đậu xanh. Cậu cẩn thận nhún ngón tay đeo nhẫn vào màn sương mù. Những con quỷ chạm vào tay cậu đều la lên đau đớn và nhảy ra khỏi mặt nước; chúng bắn lên như những đốm sáng màu xanh vỏ chanh lên bầu trời tối đen.
“Tôi thấy chúng rồi,” Edern gào lên đầy mê hoặc khi nhìn thấy những đốm sáng xanh ấy. “Cậu đã làm gì vậy?”
“Tôi cũng không biết nữa,” Timoken trả lời. “Nhưng chúng không còn cười với tôi nữa.” Bên kia cái máng nước, cậu trông thấy một ngôi nhà lớn, to hơn so với những cái còn lại. Có lẽ, đó là nơi hội họp của cả làng, hay là nhà của trường làng. Cũng có thể tất cả dân làng đang tụ tập ở đó. Phải chăng họ đến đó để hỏi trưởng làng về căn bệnh lạ do nguồn nước gây ra? Timoken đang định tiến đến để xem xét ngôi nhà, thì Edern kéo tay cậu lại:
“Nghe kìa,” Edern thì thào.
Giọng của một cậu bé trai vang lên trong không gian. Giọng hát thật trong trẻo và ngọt ngào, cậu bé đang hát bằng ngôn ngữ của Edern.
“Gereint!” Edern hét lên. “Tôi chắc đây là giọng của cậu ấy. Cậu ấy là ca sĩ ưa thích của hoàng tử chúng tôi.” Edern chạy về phía ngôi nhà phát ra tiếng hát. Timoken chạy theo cậu.
Cửa không khóa, hai cậu bé cùng chạy vào nhà. Đèn cầy sáng lung linh trên một cái bàn thô nhám và chín đứa trẻ đang ngồi ở đó, khuôn mặt của mọi người đều sợ hãi, trắng bệch. Khi chúng vừa nhìn thấy Edern và Timoken bước vào, bọn trẻ nhảy cẫng lên, thở phào nhẹ nhõm.
Chạy đến bên Edern, Peredur nói như gào: “Chúng tôi cứ tướng các cậu bị lạc, hay là bị những tên bắt cóc bắt lại rồi.”
“Tại sao chỉ có chín người các cậu ở đây?” Timoken lo lắng hỏi. “Còn những người khác đâu rồi?”
Khuôn mặt Peredur trở nên buồn rầu: “Chúng tôi nghĩ họ chết rồi.” Cậu chỉ tay vào góc tối, nơi có hai đứa trẻ đang nằm trên tấm nệm, một đứa con trai và một đứa con gái. Những đứa trẻ đã phủ lên người chúng áo khoác của mình, hai đứa bé trông như đã chết rồi. Mắt chúng nhắm nghiền, chúng gần như không thở nữa.
Một đứa bé trai đến bên Timoken. Cậu bé nhỏ hơn Peredur, tóc của cậu màu vàng óng. “Tôi đang hát cho họ,” cậu bé nói bằng tất cả lòng thương cảm cho bạn mình. “Tôi nghĩ tiếng hát của tôi sẽ giúp họ đi đến thiên đường trong hạnh phúc.”
“Họ vẫn chưa chết.” Timoken đi về phía tấm nệm, quỳ xuống bên cạnh hai đứa bé. “Cậu ấy vẫn còn ấm mà,” cậu nói, nắm lấy tay của đứa bé trai. “Chuyện gì đã xảy ra?”
“Họ dẫn đầu trong số chúng tôi,” Peredur nói. “Henri thúc cho ngựa của cậu ấy phi rất nhanh, thật tội nghiệp cho Isabella, cô bé ngồi sau lưng Henri trong bộ váy dài, lúc nào cũng sợ bị té khỏi ngựa. Khi chúng tôi đi đến ngôi làng này, chúng tôi thấy họ cột ngựa ở một cây cột, và rồi, chúng tôi thấy Henri và Isabella nằm bất tỉnh bên cạnh máng nước. Môi của họ màu xanh lá cây và nhơn nhớt, mặt họ trắng bệch như xác chết.
“Chúng tôi nghĩ họ đã uống phải nước độc,” Gereint nói. “Vì thế nên chúng tôi không dám đụng đến nó.”
“Cậu thật thông minh,” Timoken khen ngợi. Cậu đi ra cửa, đến bên Gabar, vẫn đang kiên nhẫn chờ đợi.
“Nước à?” Gabar hỏi, khi Timoken lấy áo choàng mặt trăng trong túi ra.
“Chờ một chút nữa, Gabar,” Timoken nói. “Nước trong máng đã bị đầu độc, hãy biết ơn vì ta đã ngăn cản ngươi kịp lúc.”
“Tôi luôn biết ơn cậu mà, Gia đình,” con lạc đà nói với theo khi Timoken đi ngược về phía ngôi nhà.
Cậu mang áo choàng mặt trăng để bên cạnh hai đứa trẻ và ngồi xuống bên canh chúng. Edern mang đèn cầy đên, để ánh sáng soi trên mặt họ. Những đứa trẻ còn lại đứng sau lưng Edern, thì thầm lo lắng. Áo choàng mặt trăng tỏa sáng lấp lánh dưới ánh đèn, những sợi tơ của nó trông như những ngôi sao.
“Đây là gì vậy?”
Timoken nhận ra giọng nói của cô gái “ở trong lồng”. Cô gái có vẻ đang rất tò mò. Timoken không biết giải thích thế nào với cô về áo choàng mặt trăng.
“Phù thủy nhỏ, hãy nói cho tôi biết cậu đang làm gì.” Giọng nói của cô trở nên dịu dàng. “Tôi đã tin tưởng cậu, nhưng tôi vẫn muốn biết cậu đang làm gì.”
Timoken hít sâu, cầm tấm tơ nhện lên và nói: “Tôi gọi nó là áo choàng mặt trăng. Nó được làm từ tơ của con nhện mặt trăng cuối cùng. Nó bảo vệ cho tôi và thỉnh thoảng, nó còn có thể chữa lành cả vết thương.” Cậu giải thích về áo choàng mặt trăng cho mọi người.
Những đứa trẻ sau lưng cậu xì xào bàn tán đầy kinh ngạc. Rồi tiếng xì xầm biến thành tiếng reo vui đầy phấn khích khi Henri từ từ quay đầu lại và rên rỉ.
“Cậu ấy đang hồi phục,” Peredur nói.
Mọi người háo hức theo dõi từng chuyển biến trên sắc mặt của Henri. Đột nhiên, cậu bé ngồi dậy và thì thào: “Hình như tôi đang bị bệnh!” Mặc dù, những đứa trẻ người Anh không hiểu được những gì cậu nói, nhưng chúng đoán được điều gì sẽ xảy ra, tất cả cùng lùi lại, đứng sát vào nhau. Henri gập người và bắt đầu nôn ọe. Một thứ chất lỏng màu xanh chảy xuống, đọng thành một cái vũng trên nền đất. Chỉ có Timoken nhìn thấy những con quái vật màu xanh đang quằn quại đau đớn trong cái vũng đó và từ từ chết đi. Chỉ trong một vài giây, chất lỏng màu xanh nhanh chóng thấm xuống đất, chỉ còn để lại vết tích của một mảng đất ướt.
“Là cậu!” Henri nói, nhìn lên Timoken. “Cậu đã cứu sống tôi một lần nữa.”
Timoken cười: “Không. Là áo choàng mặt trăng cứu cậu đó.”
Henri nhíu mày nhìn tấm tơ nhện lấp lánh. “Ui!” Cậu thả chân xuống đất, từ từ đứng dậy, tấm tơ nhện trượt xuống bên cạnh Isabelle. “Ổ! Isabelle!” Henri lấy tay che miệng. “Cậu ấy vẫn còn chưa tỉnh sao? Đó là lỗi của tôi. Tôi đã bảo bạn ấy uống nước. Nó có thuốc độc đúng không?”
“Cậu ngốc thật!” một cậu bé người Pháp nói. Cậu bé cao và gầy, với mái tóc xoăn thành lọn màu vàng. “Tại sao lúc nào cậu cũng thích chạy trước thế?”
“Tớ xin lỗi, Gerard. Tớ đã không tự chủ được. Tớ không cố ý... Ôi...” Henri lấy tay ôm lấy mặt. “Cậu ấy sẽ chết phải không?”
“Không,” Timoken khẳng định chắc nịch.
“Cô ấy đang mở mắt kìa!” Edern la lên.
Chỉ trong chốc lát, Isabelle ngồi thẳng dậy. Những lọn tóc ướt xõa xuống mặt, cô bé trông có vẻ bối rối, cô vẫn không biết mình đang ở đâu và làm sao cô đến được đây. “Uiiiiiiii!” cô bé rên rỉ, nghiêng người trên tấm nệm.
Những đứa trẻ càng lùi ra xa hơn, Isabelle bắt đầu nôn ói, chất lỏng màu xanh ấy lại tuôn xuống nền nhà.
“Chuyện gì đã xảy ra với mình thế?” cô bé tội nghiệp thút thít.
Phớt lờ những sinh vật màu xanh đang chết dần dưới chân cậu, Timoken ngồi xuống bên cạnh cô bé, choàng tay qua vai cô. “Cậu đã bị trúng độc,” Timoken dịu dàng nói. “Nhưng giờ thì ổn rồi. Cậu đang ở đây với những người bạn.”
Isabelle nhìn lên. Cô bé cười thật tươi, nụ cười làm khuôn mặt cô nhỏ bừng sáng: “Cậu chính là cậu bé đã cứu chúng tôi. Chúng tôi cứ nghĩ cậu đã bị lạc đường.”
“Không. Không phải bị lạc,” Timoken nói. “Tôi không bao giờ bị lạc cả.” Timoken đứng dậy. Những đứa trẻ khác quây quần bên Isabelle, ai cũng vui mừng và nhẹ nhõm. Cô bé đứng dậy, cầm tấm mạng nhện lên, nhìn chăm chăm vào những đường tơ lấp lánh.
“Đó là phép thuật,” Henri nói với cô. “Nó đã cứu chúng ta. Tớ xin lỗi, Isabelle. Tất cả đều là lỗi của tớ.”
Khi những đứa trẻ người Pháp trò chuyện rôm rả với nhau, những đứa trẻ người Anh đi tìm thức ăn. Chúng đã ăn hết một lát bánh mì trên bàn.
“Tôi sẽ đi đến căn nhà lớn ở đằng kia,” Timoken nói với chúng. “Những người dân làng có lẽ đang ở đó.”
“Không!” một đứa bé trai lắc đầu. Cậu ta già dặn hơn và trông cao lớn hơn những đứa trẻ còn lại. Tóc của cậu không phải màu vàng, nó màu nâu đậm. Có lẽ cậu bị bắt cóc vì màu mắt; mắt cậu xanh màu xanh thật mờ ảo.
“Tại sao chúng ta không nên đến đó, Mabon?” Edern hỏi.
“Trong căn nhà đó... trong căn nhà đó chỉ toàn người chết thôi,” Mabon mạnh dạn nói. “Chúng tôi đã đi đến đó trước tiên vì nghĩ rằng những vị trưởng lão sẽ ở trong ngôi nhà lớn nhất.”
“Tất cả đều đã chết ư?” Timoken thì thầm
“Tất cả,” Mabon nói.
“Có thể, họ đến tìm trưởng làng để xin lời khuyên cho căn bệnh của mình,” Peredur nói.
Timoken cúi đầu. Cậu thấy đầu mình trở nên nặng nề. “Vậy là đã quá muộn.”
Bọn trẻ đã tìm thấy được một ít đậu khô và một số rau củ. Chỗ thức ăn đó có lẽ sẽ đủ cho tất cả mọi người, nhưng ở đây không có gì để uống cả, chúng không dám dùng nước từ cái máng để nâu ăn.
“Trời sẽ mưa thôi,” Timoken nói. “Hãy mang tất cả các bình nước, thau chậu, và cả những chiếc cốc ra ngoài. Chúng ta sẽ có nước.”
Bọn trẻ nhìn Timoken hoài nghi, nhưng trước khi chúng cất tiếng hỏi, Edern giục: “Nhanh lên nào, mọi người. Các cậu nghe Timoken nói rồi đấy. Trời sẽ mưa.”
Tất cả im lặng một lúc, sau đó, mọi người mang tất cả những vật có thể đựng nước ra ngoài. Họ đi theo Timoken, tay cầm bình, lọ, cốc, chúng há hốc mồm nhìn cậu bé người Châu Phi vung áo choàng mặt trăng lên trời và những hạt mưa bắt đầu rơi xuống từ bầu trời tối đen, làm đầy tất cả các vật đựng nước. Khi trời đang mưa, Timoken chạy vào những nhà khác để lấy thêm bình đựng nước. Cuối cùng, cậu cũng tìm thấy các thứ mình cần - một cái vạc to. Cậu mang cái vạc đến trước cửa một cái chuồng và gọi Gabar.
“Tôi tưởng cậu quên tôi rồi chứ,” con lạc đà càu nhàu khi đi đến cái chuồng.
“Nhanh lên, vào trong đi, Gabar,” Timoken ra lệnh. “Nếu không thì ngươi sẽ lại phàn nàn vì ta làm ướt ngươi. Khi cái vạc này đầy, ngươi chỉ việc cúi đầu vào và uống nước thôi.”
“Tốt lắm,” Gabar nói và thả lỏng người trong cái chuồng thấp mái. “Cảm ơn Gia đình nhé!”
Khi Timoken quay lại căn nhà, cậu thấy bọn trẻ đang bắt đầu đặt nồi lên bếp lửa nấu nướng. Khi cậu đến gần bọn trẻ, cậu chợt nhận ra rằng, những đứa trẻ này đã biết tất cả những bí mật của cậu, cậu nhớ lại lời căn dặn của chị minh. Nhưng làm sao cậu có thể giữ bí mật chứ? Nếu là chị, chị sẽ làm gì, Zobayda? Timoken tự hỏi. Một cơn đau nhói chạy từ ngón tay đeo nhẫn của cậu, lên đến cánh tay cậu và đi thẳng vào tim. Chỉ có một đứa trẻ trông thấy cậu rung lên.
“Có chuyện gì vậy, Timoken?” cô gái trong lồng hỏi cậu. “Cậu bị đau à?”
Cơn đau ngừng hẳn sau vài giây, lúc đó Timoken mới có thể trả lời thật lòng: “Không có gì.”
“Cậu chắc chứ?” cô bé chạm vào cánh tay cậu. Trong căn phòng tràn ngập ánh nến, đôi mắt của cô có màu tím phơn phớt xanh thẫm. Cô ấy vẫn chỉ là một đứa trẻ, nhưng trông cô thật xinh đẹp. Chiếc nơ trên tóc cô được làm từ lụa thượng hạng, cậu còn thấy rằng viền áo của cô được làm bằng vàng. Cô ấy chắc chắn là một người rất đặc biệt, cậu nghĩ. Khi cậu định hỏi tên, thì cô gái nói: “Tôi tên là Beri.”
Món súp đặc cũng đã được nấu xong, bọn trẻ chia nó ra từng tô nhỏ, rồi ngồi xúm xít bên nhau trên hai chiếc ghế dài ở hai bên bàn. Một số đứa đã ăn vội khi còn chưa kịp ngồi vào bàn.
“Đó là gì vậy?” Gereint nhìn ra cửa khi nghe một tiếng động.
Timoken cũng nghe thấy tiếng động đó. Một âm thanh êm êm, nghe như tiếng bước chân kéo lê trên đất. Theo sau đó là nhiều âm thanh hỗn tạp khác. Then cửa từ từ được nhấc lên và cánh cửa mở ra.
Một khuôn mặt già nua xuất hiện. Khuôn mặt đầy những nếp nhăn và xương xẩu, đến mức không thể phân biệt được đó là đàn ông hay đàn bà, nhưng khi người đó đi vào phòng, rõ ràng, đó là một bà lão. Bên dưới tấm khăn choàng màu xám, lưng bà lão còng xuống, bộ quần áo bà ta mặc trên người trông như một mảnh vải quấn trên một khung xương. Gấu váy của bà ta rách bươm, dính đầy bùn đất vì bị kéo lê và giẫm đạp.
“Những đứa trẻ kia!” giọng bà ta ồm ồm. “Các ngươi đã chết hay là những con ma?”
“Chúng tôi chưa chết,” Timoken đứng dậy.
Người đàn bà già nua nhìn Timoken sợ hãi. “Chính là ngươi!” bà ta nói rõ to. “Ngươi chính là người ông ta đang tìm kiếm.”
Timoken rùng mình trước cái nhìn buộc tội của bà lão. “Ai đang tìm kiếm tôi?” cậu hỏi bằng giọng thật nhỏ.
Đôi môi khô khốc, nhăn nheo của bà ta rung lên giận dữ, cố phát ra tiếng nói. Cuối cùng, bà ta cũng nói thành từ: “Bọn phù thủy!” Những từ cuối cùng tuôn ra trong tiếng khò khè hổn hển trước khi bà ta ngã xuống đất.
Timoken không muốn dừng lại ở đây. Cậu đang lo lắng cho mười một đứa trẻ, cậu chỉ muốn nhanh chóng tìm thấy chúng trước khi trời tối hẳn. Nhưng Gabar thì lại cần được nghỉ ngoi. Nó nhìn thấy một cái máng nước bằng đá bên dưới chiếc vòi bơm đặt ngay trung tâm ngôi làng, Gabar đi thẳng đến đó. Nó đang chực cúi đầu xuống uống nước, thì Timoken kéo dây cương ngăn lại, không cho con lạc đà chạm vào máng nước.
Con lạc đà giận dỗi nói: “Tôi khát lắm rồi. Tại sao cậu không để tôi uống nước chứ?”
“Nhìn xuống nước kìa, Gabar! Nhìn đi!”
Dưới ánh sáng từ ngọn đèn của Timoken, mặt nước trở nên óng ánh. Với Gabar, nước mới mát ngọt làm sao.
“Có chuyện gì thế?” Edern nhìn khắp lượt Timoken. “Tại sao cậu không cho con lạc đà uống nước?”
“Bởi vì, có ai đó đã bỏ thuốc độc vào nước.” Ngay khi đã nói ra, Timoken nhận ra rằng, Edern không thể nhìn thấy lớp sương mù mỏng, màu xanh đang bao trùm lấy mặt nước, trong nước có cả những sinh vật nhò xíu với hình thù kỳ lạ. Chúng đang cười với Timoken, khuôn mặt gian xảo của chúng quá ư hiểm ác.
“Làm sao cậu biết được?” Edern thắc mắc. “Làm sao cậu biết giếng nước đã bị đầu độc?”
“Tôi có thể nhìn thấy chúng,” Timoken giải thích thật đơn giản.
“Chúng là ai?”
“Ma quỷ.”
Giờ thì Gabar có thể cảm nhận được có gi đó bất an đang diễn ra. Nó không thể nhìn thấy những sinh vật đó, nhưng nó cảm nhận được chúng, nó bắt đầu lùi lại.
Edern vẫn không thấy gì cả, nhưng cậu tin vào lời nói của Timoken. “Vậy chúng ta phải làm sao đây?”
“Có lẽ cả ngôi làng này đã bị đầu độc rồi,” giọng Timoken trầm ngâm. “Có lẽ, họ đã chết hết rồi, nhưng biết đâu còn người nào sống sót quanh đây.”
Edern nhìn những ngôi nhà xung quanh, tất cả đều chìm trong bóng tối và sự tĩnh lặng. “Chúng ta có nên vào nhà xem không?” giọng nói cậu xen lẫn chút sợ hãi.
“Bắt buộc đấy.”
Gabar quỳ xuống cho hai cậu bé leo xuống đất. Căn nhà đầu tiên hai cậu bước vào khá là trống trải. Căn nhà kế tiếp cũng thế. Trong cả hai căn nhà, đồ ăn đang được bày trên bàn, có cả bình nước và một vài cái cốc. Bình nước trống rỗng, cả những cái cốc cũng thê”. Khi họ đi đến ngôi nhà thứ ba, vẫn một viễn cảnh gần giống như thế hiện ra, họ bắt đầu nghĩ rằng, có lẽ những người dân làng đã khiếp sợ bỏ trốn hết, và có lẽ họ đã không bị đầu độc.
Timoken quay trở lại máng nước. Cậu buộc mình nhìn xuống mặt nước một lần nữa. Những sinh vật ma quỷ nhỏ xíu ấy vẫn còn, chúng đang bơi trong nước như những hạt đậu xanh. Cậu cẩn thận nhún ngón tay đeo nhẫn vào màn sương mù. Những con quỷ chạm vào tay cậu đều la lên đau đớn và nhảy ra khỏi mặt nước; chúng bắn lên như những đốm sáng màu xanh vỏ chanh lên bầu trời tối đen.
“Tôi thấy chúng rồi,” Edern gào lên đầy mê hoặc khi nhìn thấy những đốm sáng xanh ấy. “Cậu đã làm gì vậy?”
“Tôi cũng không biết nữa,” Timoken trả lời. “Nhưng chúng không còn cười với tôi nữa.” Bên kia cái máng nước, cậu trông thấy một ngôi nhà lớn, to hơn so với những cái còn lại. Có lẽ, đó là nơi hội họp của cả làng, hay là nhà của trường làng. Cũng có thể tất cả dân làng đang tụ tập ở đó. Phải chăng họ đến đó để hỏi trưởng làng về căn bệnh lạ do nguồn nước gây ra? Timoken đang định tiến đến để xem xét ngôi nhà, thì Edern kéo tay cậu lại:
“Nghe kìa,” Edern thì thào.
Giọng của một cậu bé trai vang lên trong không gian. Giọng hát thật trong trẻo và ngọt ngào, cậu bé đang hát bằng ngôn ngữ của Edern.
“Gereint!” Edern hét lên. “Tôi chắc đây là giọng của cậu ấy. Cậu ấy là ca sĩ ưa thích của hoàng tử chúng tôi.” Edern chạy về phía ngôi nhà phát ra tiếng hát. Timoken chạy theo cậu.
Cửa không khóa, hai cậu bé cùng chạy vào nhà. Đèn cầy sáng lung linh trên một cái bàn thô nhám và chín đứa trẻ đang ngồi ở đó, khuôn mặt của mọi người đều sợ hãi, trắng bệch. Khi chúng vừa nhìn thấy Edern và Timoken bước vào, bọn trẻ nhảy cẫng lên, thở phào nhẹ nhõm.
Chạy đến bên Edern, Peredur nói như gào: “Chúng tôi cứ tướng các cậu bị lạc, hay là bị những tên bắt cóc bắt lại rồi.”
“Tại sao chỉ có chín người các cậu ở đây?” Timoken lo lắng hỏi. “Còn những người khác đâu rồi?”
Khuôn mặt Peredur trở nên buồn rầu: “Chúng tôi nghĩ họ chết rồi.” Cậu chỉ tay vào góc tối, nơi có hai đứa trẻ đang nằm trên tấm nệm, một đứa con trai và một đứa con gái. Những đứa trẻ đã phủ lên người chúng áo khoác của mình, hai đứa bé trông như đã chết rồi. Mắt chúng nhắm nghiền, chúng gần như không thở nữa.
Một đứa bé trai đến bên Timoken. Cậu bé nhỏ hơn Peredur, tóc của cậu màu vàng óng. “Tôi đang hát cho họ,” cậu bé nói bằng tất cả lòng thương cảm cho bạn mình. “Tôi nghĩ tiếng hát của tôi sẽ giúp họ đi đến thiên đường trong hạnh phúc.”
“Họ vẫn chưa chết.” Timoken đi về phía tấm nệm, quỳ xuống bên cạnh hai đứa bé. “Cậu ấy vẫn còn ấm mà,” cậu nói, nắm lấy tay của đứa bé trai. “Chuyện gì đã xảy ra?”
“Họ dẫn đầu trong số chúng tôi,” Peredur nói. “Henri thúc cho ngựa của cậu ấy phi rất nhanh, thật tội nghiệp cho Isabella, cô bé ngồi sau lưng Henri trong bộ váy dài, lúc nào cũng sợ bị té khỏi ngựa. Khi chúng tôi đi đến ngôi làng này, chúng tôi thấy họ cột ngựa ở một cây cột, và rồi, chúng tôi thấy Henri và Isabella nằm bất tỉnh bên cạnh máng nước. Môi của họ màu xanh lá cây và nhơn nhớt, mặt họ trắng bệch như xác chết.
“Chúng tôi nghĩ họ đã uống phải nước độc,” Gereint nói. “Vì thế nên chúng tôi không dám đụng đến nó.”
“Cậu thật thông minh,” Timoken khen ngợi. Cậu đi ra cửa, đến bên Gabar, vẫn đang kiên nhẫn chờ đợi.
“Nước à?” Gabar hỏi, khi Timoken lấy áo choàng mặt trăng trong túi ra.
“Chờ một chút nữa, Gabar,” Timoken nói. “Nước trong máng đã bị đầu độc, hãy biết ơn vì ta đã ngăn cản ngươi kịp lúc.”
“Tôi luôn biết ơn cậu mà, Gia đình,” con lạc đà nói với theo khi Timoken đi ngược về phía ngôi nhà.
Cậu mang áo choàng mặt trăng để bên cạnh hai đứa trẻ và ngồi xuống bên canh chúng. Edern mang đèn cầy đên, để ánh sáng soi trên mặt họ. Những đứa trẻ còn lại đứng sau lưng Edern, thì thầm lo lắng. Áo choàng mặt trăng tỏa sáng lấp lánh dưới ánh đèn, những sợi tơ của nó trông như những ngôi sao.
“Đây là gì vậy?”
Timoken nhận ra giọng nói của cô gái “ở trong lồng”. Cô gái có vẻ đang rất tò mò. Timoken không biết giải thích thế nào với cô về áo choàng mặt trăng.
“Phù thủy nhỏ, hãy nói cho tôi biết cậu đang làm gì.” Giọng nói của cô trở nên dịu dàng. “Tôi đã tin tưởng cậu, nhưng tôi vẫn muốn biết cậu đang làm gì.”
Timoken hít sâu, cầm tấm tơ nhện lên và nói: “Tôi gọi nó là áo choàng mặt trăng. Nó được làm từ tơ của con nhện mặt trăng cuối cùng. Nó bảo vệ cho tôi và thỉnh thoảng, nó còn có thể chữa lành cả vết thương.” Cậu giải thích về áo choàng mặt trăng cho mọi người.
Những đứa trẻ sau lưng cậu xì xào bàn tán đầy kinh ngạc. Rồi tiếng xì xầm biến thành tiếng reo vui đầy phấn khích khi Henri từ từ quay đầu lại và rên rỉ.
“Cậu ấy đang hồi phục,” Peredur nói.
Mọi người háo hức theo dõi từng chuyển biến trên sắc mặt của Henri. Đột nhiên, cậu bé ngồi dậy và thì thào: “Hình như tôi đang bị bệnh!” Mặc dù, những đứa trẻ người Anh không hiểu được những gì cậu nói, nhưng chúng đoán được điều gì sẽ xảy ra, tất cả cùng lùi lại, đứng sát vào nhau. Henri gập người và bắt đầu nôn ọe. Một thứ chất lỏng màu xanh chảy xuống, đọng thành một cái vũng trên nền đất. Chỉ có Timoken nhìn thấy những con quái vật màu xanh đang quằn quại đau đớn trong cái vũng đó và từ từ chết đi. Chỉ trong một vài giây, chất lỏng màu xanh nhanh chóng thấm xuống đất, chỉ còn để lại vết tích của một mảng đất ướt.
“Là cậu!” Henri nói, nhìn lên Timoken. “Cậu đã cứu sống tôi một lần nữa.”
Timoken cười: “Không. Là áo choàng mặt trăng cứu cậu đó.”
Henri nhíu mày nhìn tấm tơ nhện lấp lánh. “Ui!” Cậu thả chân xuống đất, từ từ đứng dậy, tấm tơ nhện trượt xuống bên cạnh Isabelle. “Ổ! Isabelle!” Henri lấy tay che miệng. “Cậu ấy vẫn còn chưa tỉnh sao? Đó là lỗi của tôi. Tôi đã bảo bạn ấy uống nước. Nó có thuốc độc đúng không?”
“Cậu ngốc thật!” một cậu bé người Pháp nói. Cậu bé cao và gầy, với mái tóc xoăn thành lọn màu vàng. “Tại sao lúc nào cậu cũng thích chạy trước thế?”
“Tớ xin lỗi, Gerard. Tớ đã không tự chủ được. Tớ không cố ý... Ôi...” Henri lấy tay ôm lấy mặt. “Cậu ấy sẽ chết phải không?”
“Không,” Timoken khẳng định chắc nịch.
“Cô ấy đang mở mắt kìa!” Edern la lên.
Chỉ trong chốc lát, Isabelle ngồi thẳng dậy. Những lọn tóc ướt xõa xuống mặt, cô bé trông có vẻ bối rối, cô vẫn không biết mình đang ở đâu và làm sao cô đến được đây. “Uiiiiiiii!” cô bé rên rỉ, nghiêng người trên tấm nệm.
Những đứa trẻ càng lùi ra xa hơn, Isabelle bắt đầu nôn ói, chất lỏng màu xanh ấy lại tuôn xuống nền nhà.
“Chuyện gì đã xảy ra với mình thế?” cô bé tội nghiệp thút thít.
Phớt lờ những sinh vật màu xanh đang chết dần dưới chân cậu, Timoken ngồi xuống bên cạnh cô bé, choàng tay qua vai cô. “Cậu đã bị trúng độc,” Timoken dịu dàng nói. “Nhưng giờ thì ổn rồi. Cậu đang ở đây với những người bạn.”
Isabelle nhìn lên. Cô bé cười thật tươi, nụ cười làm khuôn mặt cô nhỏ bừng sáng: “Cậu chính là cậu bé đã cứu chúng tôi. Chúng tôi cứ nghĩ cậu đã bị lạc đường.”
“Không. Không phải bị lạc,” Timoken nói. “Tôi không bao giờ bị lạc cả.” Timoken đứng dậy. Những đứa trẻ khác quây quần bên Isabelle, ai cũng vui mừng và nhẹ nhõm. Cô bé đứng dậy, cầm tấm mạng nhện lên, nhìn chăm chăm vào những đường tơ lấp lánh.
“Đó là phép thuật,” Henri nói với cô. “Nó đã cứu chúng ta. Tớ xin lỗi, Isabelle. Tất cả đều là lỗi của tớ.”
Khi những đứa trẻ người Pháp trò chuyện rôm rả với nhau, những đứa trẻ người Anh đi tìm thức ăn. Chúng đã ăn hết một lát bánh mì trên bàn.
“Tôi sẽ đi đến căn nhà lớn ở đằng kia,” Timoken nói với chúng. “Những người dân làng có lẽ đang ở đó.”
“Không!” một đứa bé trai lắc đầu. Cậu ta già dặn hơn và trông cao lớn hơn những đứa trẻ còn lại. Tóc của cậu không phải màu vàng, nó màu nâu đậm. Có lẽ cậu bị bắt cóc vì màu mắt; mắt cậu xanh màu xanh thật mờ ảo.
“Tại sao chúng ta không nên đến đó, Mabon?” Edern hỏi.
“Trong căn nhà đó... trong căn nhà đó chỉ toàn người chết thôi,” Mabon mạnh dạn nói. “Chúng tôi đã đi đến đó trước tiên vì nghĩ rằng những vị trưởng lão sẽ ở trong ngôi nhà lớn nhất.”
“Tất cả đều đã chết ư?” Timoken thì thầm
“Tất cả,” Mabon nói.
“Có thể, họ đến tìm trưởng làng để xin lời khuyên cho căn bệnh của mình,” Peredur nói.
Timoken cúi đầu. Cậu thấy đầu mình trở nên nặng nề. “Vậy là đã quá muộn.”
Bọn trẻ đã tìm thấy được một ít đậu khô và một số rau củ. Chỗ thức ăn đó có lẽ sẽ đủ cho tất cả mọi người, nhưng ở đây không có gì để uống cả, chúng không dám dùng nước từ cái máng để nâu ăn.
“Trời sẽ mưa thôi,” Timoken nói. “Hãy mang tất cả các bình nước, thau chậu, và cả những chiếc cốc ra ngoài. Chúng ta sẽ có nước.”
Bọn trẻ nhìn Timoken hoài nghi, nhưng trước khi chúng cất tiếng hỏi, Edern giục: “Nhanh lên nào, mọi người. Các cậu nghe Timoken nói rồi đấy. Trời sẽ mưa.”
Tất cả im lặng một lúc, sau đó, mọi người mang tất cả những vật có thể đựng nước ra ngoài. Họ đi theo Timoken, tay cầm bình, lọ, cốc, chúng há hốc mồm nhìn cậu bé người Châu Phi vung áo choàng mặt trăng lên trời và những hạt mưa bắt đầu rơi xuống từ bầu trời tối đen, làm đầy tất cả các vật đựng nước. Khi trời đang mưa, Timoken chạy vào những nhà khác để lấy thêm bình đựng nước. Cuối cùng, cậu cũng tìm thấy các thứ mình cần - một cái vạc to. Cậu mang cái vạc đến trước cửa một cái chuồng và gọi Gabar.
“Tôi tưởng cậu quên tôi rồi chứ,” con lạc đà càu nhàu khi đi đến cái chuồng.
“Nhanh lên, vào trong đi, Gabar,” Timoken ra lệnh. “Nếu không thì ngươi sẽ lại phàn nàn vì ta làm ướt ngươi. Khi cái vạc này đầy, ngươi chỉ việc cúi đầu vào và uống nước thôi.”
“Tốt lắm,” Gabar nói và thả lỏng người trong cái chuồng thấp mái. “Cảm ơn Gia đình nhé!”
Khi Timoken quay lại căn nhà, cậu thấy bọn trẻ đang bắt đầu đặt nồi lên bếp lửa nấu nướng. Khi cậu đến gần bọn trẻ, cậu chợt nhận ra rằng, những đứa trẻ này đã biết tất cả những bí mật của cậu, cậu nhớ lại lời căn dặn của chị minh. Nhưng làm sao cậu có thể giữ bí mật chứ? Nếu là chị, chị sẽ làm gì, Zobayda? Timoken tự hỏi. Một cơn đau nhói chạy từ ngón tay đeo nhẫn của cậu, lên đến cánh tay cậu và đi thẳng vào tim. Chỉ có một đứa trẻ trông thấy cậu rung lên.
“Có chuyện gì vậy, Timoken?” cô gái trong lồng hỏi cậu. “Cậu bị đau à?”
Cơn đau ngừng hẳn sau vài giây, lúc đó Timoken mới có thể trả lời thật lòng: “Không có gì.”
“Cậu chắc chứ?” cô bé chạm vào cánh tay cậu. Trong căn phòng tràn ngập ánh nến, đôi mắt của cô có màu tím phơn phớt xanh thẫm. Cô ấy vẫn chỉ là một đứa trẻ, nhưng trông cô thật xinh đẹp. Chiếc nơ trên tóc cô được làm từ lụa thượng hạng, cậu còn thấy rằng viền áo của cô được làm bằng vàng. Cô ấy chắc chắn là một người rất đặc biệt, cậu nghĩ. Khi cậu định hỏi tên, thì cô gái nói: “Tôi tên là Beri.”
Món súp đặc cũng đã được nấu xong, bọn trẻ chia nó ra từng tô nhỏ, rồi ngồi xúm xít bên nhau trên hai chiếc ghế dài ở hai bên bàn. Một số đứa đã ăn vội khi còn chưa kịp ngồi vào bàn.
“Đó là gì vậy?” Gereint nhìn ra cửa khi nghe một tiếng động.
Timoken cũng nghe thấy tiếng động đó. Một âm thanh êm êm, nghe như tiếng bước chân kéo lê trên đất. Theo sau đó là nhiều âm thanh hỗn tạp khác. Then cửa từ từ được nhấc lên và cánh cửa mở ra.
Một khuôn mặt già nua xuất hiện. Khuôn mặt đầy những nếp nhăn và xương xẩu, đến mức không thể phân biệt được đó là đàn ông hay đàn bà, nhưng khi người đó đi vào phòng, rõ ràng, đó là một bà lão. Bên dưới tấm khăn choàng màu xám, lưng bà lão còng xuống, bộ quần áo bà ta mặc trên người trông như một mảnh vải quấn trên một khung xương. Gấu váy của bà ta rách bươm, dính đầy bùn đất vì bị kéo lê và giẫm đạp.
“Những đứa trẻ kia!” giọng bà ta ồm ồm. “Các ngươi đã chết hay là những con ma?”
“Chúng tôi chưa chết,” Timoken đứng dậy.
Người đàn bà già nua nhìn Timoken sợ hãi. “Chính là ngươi!” bà ta nói rõ to. “Ngươi chính là người ông ta đang tìm kiếm.”
Timoken rùng mình trước cái nhìn buộc tội của bà lão. “Ai đang tìm kiếm tôi?” cậu hỏi bằng giọng thật nhỏ.
Đôi môi khô khốc, nhăn nheo của bà ta rung lên giận dữ, cố phát ra tiếng nói. Cuối cùng, bà ta cũng nói thành từ: “Bọn phù thủy!” Những từ cuối cùng tuôn ra trong tiếng khò khè hổn hển trước khi bà ta ngã xuống đất.
Danh sách chương