Đi với Jessamine quả nhiên tồi tệ như Tessa sợ. Giao thông thật kinh khủng. Dù New York rất đông đúc, nhưng Tessa chưa từng thấy thứ gì lộn xộn như phố Strand giữa trưa. Những cỗ xe ngựa đi song song với đám xe bò chất đầy trái cây và rau củ; những người phụ nữ bê và đội những cái giỏ nông đầy hoa đi lại tất tả giữa dòng xe cộ khi cố mời chào những vị khách ngồi trong xe ngựa; và những cỗ xe dừng sựng lại giữa đường để người xà ích có thể gào thét vào mặt một người khác. Âm thanh càng hỗn độn – những người bán kem hét, “Kem đây, kem đây, một xu một cái,” những cậu bé bán báo rao những tin mới nhất của ngày, và có ai đó ở đâu đó đang chơi nhạc thùng. Tessa tự hỏi sao mọi người sống và làm việc ở Luân Đôn không bị điếc.

Khi nhìn ra cửa sổ, một bà lão mang một cái lồng lớn bằng sắt đầy những chú chim sặc sỡ bước cạnh cỗ xe ngựa chở Tessa và Jessamine. Bà ta quay đầu và Tessa thấy da bà ta xanh như lông vẹt, đôi mắt to và đen như chim, mái tóc là đám lông vũ đủ màu. Tessa giật mình và Jessamine nhìn theo, nhíu mày. “Kéo rèm đi,” cô nàng nói. “Thế cho đỡ bụi.” Miệng nói tay làm, Jessamine kéo rèm luôn.

Tessa nhìn cô nàng. Đôi môi nhỏ của Jessamine đang mím lại. “Bồ có thấy…” Tessa mở lời.

“Không,” Jessamine nói và nhìn Tessa với ánh mắt chắc được gọi là ánh mắt “hình viên đạn”. Tessa vội nhìn đi chỗ khác.

Mọi chuyện cũng chẳng hề thay đổi cho tới khi họ đến khu West End thời thượng. Để lại Thomas kiên nhẫn đợi cùng đám ngựa, Jessamine kéo Tessa ra vào hàng loạt các nhà may, nhìn hết mẫu thiết kế này tới mẫu may khác, đứng đợi trong khi cô bán hàng xinh đẹp nhất được chọn để mặc mẫu (không một tiểu thư thực thụ nào được phép mặc váy có thể từng mặc lên một người lạ). Ở mỗi nơi cô nàng lại dùng một tên giả và một địa vị khác nhau; ở mỗi nơi, người chủ dường như đều ấn tượng trước vẻ ngoài và sự giàu có rõ ràng và luôn tay phục vụ cô nàng. Tessa, gần như bị tảng lờ, đứng ở bên cạnh, chán muốn chết đi được.

Tại một cửa hàng, trong vai một thiếu phụ, Jessamine thậm chí còn xem xét mẫu thiết kế đồ tang may bằng nhiễu điều và đăng ten. Tessa phải thừa nhận nó làm nổi bật mái tóc vàng óng của cô nàng.

“Cô mặc chiếc váy này đẹp quá đi. Thể nào cô cũng sớm tái hôn thôi.” Thợ may nháy mắt đầy ẩn ý. “Cô biết chúng tôi gọi thiết kế này là gì không? Bẫy Sập.”


Jessamine cười khúc khích, người thợ may cười lanh lảnh, và Tessa nghĩ xem có nên chạy ra đường và đâm đầu vào xe ngựa không. Như ý thức được sự khó chịu của cô, Jessamine liếc sang kèm theo một nụ cười trịch thượng. “Tôi cũng đang tìm vài bộ váy cho người họ hàng tới từ Mỹ này,” cô nàng nói. “Quần áo ở đó trông ghê quá. Cô ấy trông nhạt như nước ốc, mà điều đó chẳng hay tí nào. Vậy tôi mong cô có thể làm gì đó.”

Người thợ may chớp mắt như thể đây là lần đầu tiên cô ta thấy Tessa, và có lẽ là vậy thật. “Cô có muốn chọn thiết kế không?”

Sau đó là hàng lô lốc những công việc hoàn toàn mới mẻ với Tessa. Hồi ở New York, quần áo của cô luôn do dì mua – những món đồ may sẵn phải sửa lại cho vừa, và luôn luôn là chất liệu rẻ tiền màu xám sậm hoặc xanh thủy thủ. Cô chưa từng biết màu xanh dương hợp với cô và làm nổi bật màu mắt xám xanh, hay cô nên mặc đồ hồng sậm để thêm sắc thắm cho đôi má. Thợ may vừa lấy số đo của Tessa vừa bàn bạc gì đó về áo bó chẽn, áo lót và ai đó tên Charles Worth, còn cô đứng nhìn mình trong gương, chờ đợi một nét mặt sẽ tự động thay đổi. Nhưng cô vẫn vậy, và cuối cùng cô có thêm bốn chiếc váy mới – một hồng, một vàng, một sọc xanh trắng có khuy bằng ngà, và một bằng lụa màu vàng và đen – cùng hai chiếc áo vét, một cái có đính cườm quanh cổ tay. Tất cả sẽ được đưa đến trong tuần này.

“Chắc bồ sẽ rất xinh trong bộ đồ cuối cùng đấy,” Jessamine nói khi họ trở vào xe ngựa. “Đúng là người đẹp vì lụa.”

Tessa thầm đếm đến mười trước khi trả lời. “Mình cảm ơn bồ rất nhiều, Jessamine. Giờ chúng ta trở về Học Viện được chưa?”

Nghe tới đó, vẻ tươi sáng biến mất khỏi gương mặt Jessamine. Tessa nhận thấy cô nàng ghét nơi đó hơn bất cứ điều gì khác. Học Viện có gì kinh khủng thế chứ? Tất nhiên toàn bộ lý do cho sự tồn tại của nó đã đủ kinh khủng rồi, nhưng Jessamine hẳn phải quen rồi chứ. Cô nàng cũng là Thợ Săn Bóng Tối cơ mà.

“Thật là một ngày tuyệt vời,” Jessamine nói, “và bồ còn chưa thăm thú Luân Đôn. Mình nghĩ đi dạo trong công viên Hyde cũng hay đấy. Và sau đó, chúng ta có thể tới Gunter và bảo Thomas mua kem cho chúng ta!”

Tessa liếc ra ngoài cửa sổ. Bầu trời xám xịt, chỉ có chút sắc xanh ở nơi các đám mây khẽ tách ra. Đây không thể được coi là một ngày đẹp trời tại New York, nhưng Luân Đôn hình như có những cách đánh giá khác về thời tiết. Hơn nữa, giờ cô nợ Jessamine, mà cô gái kia lại chẳng muốn về nhà.

“Mình thích công viên lắm,” Tessa nói.

Jessamine suýt mỉm cười.

“Em không nói với Gray về những bánh răng,” Henry nói.

Charlotte ngước mắt khỏi đống giấy tờ và thở dài. Chị rất bực khi dù đã yêu cầu nhiều lần, nhưng Clave chỉ cấp cho Học Viện một chiếc xe ngựa duy nhất. Nó khá tốt – chuyên di chuyển trong thành phố – và Thomas là một xà ích tuyệt vời. Nhưng khi các Thợ Săn Bóng Tối của Học Viện cần đi theo các hướng khác nhau như ngày hôm nay,

Charlotte sẽ buộc phải mượn một cỗ xe từ chỗ Benedict Lightwood khó ưa. Và cỗ xe ngựa duy nhất ông ta đồng ý cho mượn rất nhỏ và khó chịu; Henry cao nghều tội nghiệp đã cộc đầu vào nóc xe khá thấp.


“Không,” chị nói. “Giờ cô gái tội nghiệp ấy đã đờ đẫn lắm rồi. Em không thể nói với cô ấy rằng những thiết bị máy móc chúng ta tìm thấy trong tầng hầm do công ty anh trai cô ấy sản xuất ra. Cô ấy sẽ thêm lo cho anh trai mình. Cô ấy sẽ gục mất.”

“Em yêu, có thể nó chẳng có ý nghĩa gì,” Henry nhắc nhở chị. “Mortmain và công ty sản xuất hầu hết các thiết bị máy móc ở Anh. Mortmain thật sự là một thiên tài. Hệ thống chủ của ông ta sản xuất ổ

bi…”

“Vâng, vâng.” Charlotte cố không để sự sốt ruột len lỏi vào giọng nói. “Và có lẽ đáng ra chúng ta nên nói. Nhưng em nghĩ tốt nhất chúng ta nên nói chuyện với Mortmain trước và thu thập tất cả những thông tin có thể. Anh nói đúng. Có thể ông ta không biết gì, và có thể chẳng có mấy liên quan. Nhưng đó quả là một sự trùng hợp đó Henry ạ. Và em hiểu rất rõ những sự trùng hợp.”

Cô liếc nhìn những ghi chú về Axel Mortmain. Ông ta là con trai (và dù những ghi chú không nói rõ ràng, nhưng có thể) duy nhất của bác sĩ Hollingworth Mortmain, người chỉ trong vài năm đã từ một thầy lang quèn làm việc trên tàu buôn với Trung Quốc trở thành một thương gia giàu nứt đố đổ vách, chuyên mua bán hương liệu, đường, lụa, trà và – dù không được nói ra nhưng Charlotte đồng ý với Jem – có lẽ là cả thuốc phiện. Khi bác sĩ Mortmain qua đời, con trai ông, Axel, chỉ độ đôi mươi, đã thừa kế sản nghiệp và ngay lập tức đầu tư vào xây dựng những hạm đội tàu nhanh hơn, mảnh mai hơn bất cứ con tàu lướt trên biển nào khác. Chỉ trong mười năm, cậu Mortmain trẻ tuổi đã nhân đôi rồi nhân bốn số tài sản ông bố để lại. Và trong những năm gần đây, ông ta không còn buôn bán trên tuyến Thưọng Hải – Luân Đôn nữa. Ông ta bán hết tàu buôn và sử dụng số tiền đó để mua một công ty lớn sản xuất linh kiện làm đồng hồ, từ đồng hồ quả quýt cho tới đồng hồ đứng. Ông ta rất ư giàu có.

Cỗ xe ngựa đỗ lại trước một dãy nhà trắng có những ô cửa sổ cao cao nhìn ra quảng trường. Henry ngó đầu ra và đọc số trên tấm biển đồng đính ở cổng trước. “Hẳn là nơi này rồi.” Đoạn, anh ấy vươn tay ra mở cửa.

“Henry,” Charlotte nói và đặt tay lên tay chồng. “Henry, anh có nhớ chúng ta nói gì lúc sáng chứ?”

Anh ấy cười lỏn lẻn. “Anh sẽ cố hết sức để không làm mất mặt em hay gây ảnh hưởng tới cuộc điều tra. Thật lòng có đôi khi anh không hiểu sao em lại lôi anh đi cùng trong những việc này. Em biết anh thường rất lúng túng khi đứng trước đám đông mà.”

“Không đâu, Henry.” Charlotte nhẹ nhàng nói. Chị rất muốn vuốt ve gương mặt chồng, vén những sợi tóc ra sau và trấn an anh ây . Nhưng chị kìm chế. Chị biết – chị đã được khuyên nhiều lần – đừng ép Henry làm những gì anh ấy không muốn.

Rời xe cùng anh xà ích của nhà Lightwood, họ bước lên bậc tam cấp và rung chuông; một người đàn ông mặc chế phục màu xanh đậm và mang vẻ mặt khó đăm đăm ra mở cửa. “Xin chào,” ông ta nói cộc lốc. “Xin hỏi các vị có chuyện gì vậy?”

Charlotte liếc nhìn Henry, người đang nhìn qua người hầu kia với vẻ mơ màng. Chúa cũng biết anh đang nghĩ gì – chắc chắn là bánh răng và những món đồ mới lạ – nhưng anh không quan tâm đến hoàn cảnh của họ. Thầm thở dài, chị nói. “Tôi là Gray, và đây là chồng tôi, Henry Gray. Chúng tôi đang tìm người anh họ tên Nathaniel Gray. Gần sáu tuần này chúng tôi không nghe được tin tức gì của anh ấy rồi. Anh ấy là hoặc từng là người làm thuê cho ông Mortmain…”

Trong một lát – hoặc có thể chỉ là tưởng tượng của chị – chị nghĩ đã thấy gì đó, một chút bất an trong ánh mắt gã người hầu. “Ông Mortmain sở hữu một công ty khá lớn. Cô không thể mong ông ấy biết nơi ở của mọi nhân vật. Điều đó là không thể. Có lẽ cô nên báo cảnh sát.”

Charlotte nheo mắt. Trước khi rời Học Viện, chị đã vẽ trong bụng cánh tay những chữ rune thuyết phục. Hiếm người phàm nào có thể cưỡng lại sức ảnh hưởng của chúng. “Rồi chứ, nhưng hình như họ không chịu xúc tiến vụ này. Anh biết đấy, chúng tôi rất lo cho Nate, và chuyện đó thật khó chịu. Nếu chúng tôi có thể gặp ông Mortmain chỉ một lát thôi…”

Chị thả lỏng khi gã người hầu chậm rãi gật đầu. “Tôi sẽ báo cho ông Mortmain rằng hai người tới,” anh ta nói và lùi lại cho họ bước vào trong .“Làm ơn đợi ở ngoài tiền sảnh.” Anh ta giật mình như ngạc nhiên trước sự đồng ý của chính mình.


Anh ta mở rộng cửa, và Charlotte đi vào theo, Henry đi sau cùng. Dù không mời Charlotte ngồi – một lỗi lịch sự chị cho rằng do anh ta bị rối trí vì những chữ rune thuyết phục – anh ta cũng giúp cất áo khoác và mũ của Henry cùng áo khoác ngoài của Charlotte, trước khi bỏ hai người tò mò nhìn quanh tiền sảnh.

Căn phòng có trần cao nhưng không được trang trí. Nó cũng thiếu những khung cảnh làng quê và những bức chân dung gia đình. Thay vào đó, treo trên tràn nhà là những lá cờ dài bằng lụa vẽ các phúc thần của Trung Quốc; một chiếc đĩa Ấn bằng bạc đập dẹt dựng ở góc phòng; những bức tranh thủy mặc vẽ danh lam thắng cảnh treo trên tường. Charlotte nhận ra núi Kilimanjaro, kim tự tháp Ai Cập, cung điện Taj Mahal, và một đoạn Vạn Lý Trường Thành. Mortmain rõ ràng đã đi thăm thú nhiều nơi và rất tự hào về việc đó.

Charlotte quay sang nhìn Henry để xem anh ấy có quan sát như chị không, nhưng anh ấy chỉ đờ đẫn nhìn về phía cầu thang. Henry lại trong tình trạng đầu óc bay tới tận đẩu tận đâu rồi! Trước khi chị kịp nói gì, gã người hầu đã xuất hiện kèm theo một nụ cười tươi rói trên môi. “Mời đi hướng này.”

Henry và Charlotte đi theo gã người hầu tới cuối hành lang, nơi anh ta mở một cửa gỗ sồi sáng bóng và mời họ vào trước.

Họ bước vào một phòng làm việc rộng thênh thang có các ô cửa sổ rộng nhìn ra quảng trường. Những tấm rèm màu nâu sậm được kéo ra để ánh sáng lọt vào, và qua những ô cửa, Charlotte có thể thấy chiếc xe ngựa đi mượn đang đợi họ ở góc đường, con ngựa đang gục đầu vào giỏ thức ăn, còn người xà ích đang đọc báo. Những nhánh cây xanh rì vươn cao ở bên kia đường tạo thành một tấm màn xanh tĩnh lặng. Những ô cửa sổ ngăn tiếng động, và trong phòng chẳng vang lên âm thanh gì ngoài tiếng tíc tắc khe khẽ của chiếc đồng hồ có dòng chữ MORTMAIN VÀ CÔNG TY màu vàng.

Đồ nội thất có tông tối bằng gỗ vân đen nặng nề, những cái đầu thú – hổ, thú ăn kiến, và báo – cùng một số phong cảnh nước ngoài khác treo đầy tường. Một chiếc bàn lớn bằng gỗ gụ đặt ở giữa phòng, trên đó là các chồng giấy tờ được xếp rất gọn gàng. Những cái bánh răng bằng đồng nặng trịch đè lên đó. Một quả địa cầu bọc đồng có dòng chữ đã đivào huyền thoại QUẢ ĐỊA CẦU CỦA WYLD, VỚI NHỮNG PHÁT HIỆN MỚI NHẤT! được đặt ở góc bàn. Trên đó, những vùng đất thuộc Đế Quốc Anh có màu đỏ hồng. Mỗi lần ngắm nhìn quả địa cầu của người phàm, Charlotte lại thấy kỳ kỳ. Thế giới của họ không giống thế giới chị biết.

Đằng sau chiếc bàn là một người đàn ông vừa đứng lên khi họ bước vào. Ông ta có dáng vẻ nhỏ bé nhưng nhanh nhẹn, tầm tuổi trung niên với mái tóc muối tiêu ăn rơ với tóc mai dài. Nước da ông ta ửng đỏ như thể thường xuyên ở vùng thời tiết khắc nghiệt. Đôi mắt ông ta mang màu xám rất rất nhạt, gương mặt dễ ưa; dù mặc bộ đồ trang nhã và có vẻ đắt tiền, Charlotte rất dễ để nghĩ tới hình ảnh ông ta trên boong tàu, hào hứng nheo mắt nhìn về đằng xa. “Xin chào,” ông ta nói. “Walker vừa cho tôi biết rằng hai người muốn tìm Nathaniel Gray?”

“Vâng,” Henry nói, khiến Charlotte ngạc nhiên. Henry hiếm khi, nếu không muốn nói là không bao giờ, chủ động tiếp chuyện người lạ. Cô tự hỏi việc này có liên quan gì tới bản vẽ phức tạp trên bàn không. Henry đang nhìn nó như hổ đói rình mồi. “Ông biết đấy, chúng tôi là anh em họ mà.”

“Chúng tôi rất cảm ơn ông đã bớt chút thời gian nói chuyện với chúng tôi, thưa ông Mortmain,” Charlotte vội nói. “Chúng tôi biết anh ấy chỉ là một trong hàng tá nhân viên của ông….”

“Hàng trăm,” ông Mortmain nói. Ông ta có giọng nam trung dễ nghe, vào lúc đó nghe có vẻ vui thú. “Đúng là tôi không thể theo dõi tất cả. Nhưng tôi có nhớ Gray. Chỉ có điều tôi không nhớ cậu ta từng nói có anh em họ là Thợ Săn Bóng Tối chưa.”




Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện