(Tên gốc của chương 399: The Least of the Scythes)
GÓC NHÌN CỦA NICO SEVER
Các vật tạo tác chiếu sáng đặt trên bàn cơ khí (workbench) mà tôi đang làm việc tỏa ra ánh sáng trắng tinh khiết chiếu vào một mớ các bộ phận xếp thành dãy trải dài trên bàn bằng gỗ sậm màu. Các cổ tự (rune) màu bạc chạy quanh mép bàn và khắp mặt bàn, chúng được ếm phép thành các hình vòng tròn có kích thước khác nhau.
(Người dịch: Bàn workbench trong tiếng Anh ám chỉ loại bàn được thiết kế để đặt hoặc gắn sẵn máy móc dùng làm dụng cụ làm việc, hoặc đục các rãnh đặt đồ, gắn đồ các kiểu, có thể là bàn của thợ cơ khí, bàn của thợ mộc, v.v… Từ này trong tiếng Việt không có nghĩa tương đương, những nơi bán bàn hay gọi nó là “bàn đa chức năng” và cụm từ này không chính xác với từ workbench, hãy xem hình minh họa phía dưới)
Tôi cầm hai vật gần giống nhau lên: chúng là những phụ kiện hình lục giác với một loạt các rãnh và những vết chạm khắc bị khắc sâu vào tận trong. Cả hai đều làm từ hợp kim bạc chứ không phải bạc nguyên chất - vì tôi đoán rằng làm bằng hợp kim bạc như thế sẽ khiến chúng có thể hoạt động tốt hơn khi chứa các tinh thể (crystal) mana đang hoạt động, nhưng tôi sẽ phải thử nghiệm để xem loại bạc nào giữ được mana tốt hơn và dẫn đến kết quả là truyền mana tinh khiết hơn.
Có cả nghìn biến số cần cân nhắc khi thực hiện một dự án truyền mana phức tạp như thế này, và tôi không chấp nhận gì khác ngoài việc nó phải hoàn hảo.
Nhìn vào hai món phụ kiện, mắt tôi bắt gặp một vết xước khiếm khuyết trên cạnh rìa của một trong mấy rãnh ngầm này. Thở ra một hơi chán nản, tôi liệng nó trở lại trên mặt bàn cơ khí làm bằng gỗ charwood kia.
(Người dịch: “charwood” là tên một loại gỗ do tác giả tự chế ra, từ “charcoal” mới thực sự có nghĩa là “than củi”)
Thế là lại thêm lần trì hoãn nữa. Vết khiếm khuyết đó sẽ ngăn tinh thể mana không được đặt đúng vị trí. Và tôi sẽ phải đặt lại một bộ phận thay thế từ gã thợ bạc khác.
Mắt phải co giật, và một ký ức khác hồi ở Trái đất (Earth) chiếm lấy sự tập trung của tôi.
Trong ký ức đó, tôi có lẽ tám hoặc chín tuổi, ngồi một mình đằng sau trại trẻ mồ côi. Cầm trong tay một con dao nhỏ loại bỏ túi, tôi đang chuốt một cái que mà tôi lượm trên đường. Chẳng có gì đặc biệt cả, chỉ là khắc một đống vòng tròn quanh cái que để vờ biến nó thành một chiếc đũa thần đồ chơi.
Tôi chỉ khoét được hơn nửa cây gậy thì con dao trượt tay, cứa sâu vào ngón cái. Đau đấy nhưng tôi sợ bị bắt gặp đang chơi với dao hơn. Hiệu trưởng Wilbeck đã tịch thu nó và mắng cho tôi một trận, rồi tôi phải gặp cái ánh nhìn đầy ngu ngốc kiểu tao-cảm-thấy-đau-chung-với-mày-nè của thằng Grey suốt cả tuần. Chuyện này là một bài học nhỏ nhưng quan trọng.
Cẩn thận hơn. Phải chú ý, nhưng đừng thu hút sự chú ý từ người khác. Phải giấu đi khi ta đang bị tổn thương.
Một cuộc sống được tạo nên từ hàng ngàn khoảnh khắc nhỏ như vậy… nỗi sợ hãi và nỗi đau ghi dấu rõ hơn mọi điều khác, dạy một người không chạm vào chỗ nào đó nóng bỏng tay hoặc đặt ngón cái vào sai cạnh lưỡi dao. Đó là những thứ thuộc về mặt vật chất rất lớn để rèn nên một tính cách.
Nếu không có những ký ức đó, một người sẽ trở thành gì?
Đối mặt với những câu hỏi mà tôi không thể trả lời, tâm trí tôi lại tiến gần đến sự vô cảm mà tôi đã cảm thấy sau khi tỉnh dậy trong phòng thí nghiệm sâu dưới... sau khi thằng Grey hủy lõi của tôi và bỏ tôi chết.
Sau khi Cecilia đã làm được điều không thể và chữa cho lõi tôi lành lại.
Dọng một tay xuống bàn làm việc, khiến các bộ phận chuẩn bị sẵn đang đặt trên bàn rung nảy lên.
Cái lõi rồng mà tôi đã trộm khỏi phòng thí nghiệm đang lăn ra khỏi vòng tròn vẽ bằng cổ tự hướng ra rìa mặt bàn. Cơn thịnh nộ mà tôi đang cảm thấy bị cuốn phăng đi bởi một cơn sợ hãi chợt nhói lên, và tôi gần như nhào hẳn qua mặt bàn để chụp lấy cái lõi, nâng niu nó bằng cả hai tay.
Bằng việc giữ lấy cái vỏ cứng và lạnh ấy, việc gạt đi giọng nói giận dữ trong tôi và thay vào đó là tập trung vào sự vô cảm sẽ dễ dàng hơn. Tôi sẽ cần sự kiểm soát đó. Bao nhiêu là những kí ức về tiền kiếp đang xâm lấn tâm trí tôi—thứ kí ức ở cả Trái đất và Dicathen với tư cách là thằng ngốc tên Elijah—đều là thứ rắc rối, và tôi cũng cảm thấy muốn bảo vệ chúng một cách quyết liệt.
Chúng là của tôi. Và bây giờ tôi đã có chúng trở lại, tôi sẽ không từ bỏ chúng nữa.
Điều đó có nghĩa là tôi đã giấu thằng Agrona một bí mật. Có điều gì đó cảm thấy rất kịch tính khi nghĩ về viễn cảnh đó. Tuy nhiên, hắn ta không phải là kẻ dễ bị dắt mũi. Tôi sẽ cần phải vờ như thiếu kiểm soát trong khi thực sự vẫn kiềm chế chặt chẽ bản thân và cảm xúc của mình. Tôi không thể cho hắn có bất kỳ lý do gì để xáo trộn tâm trí của tôi.
Dòng suy nghĩ này gây ra một cảm giác tội lỗi rất nhức nhối mà tôi không thể bỏ qua.
Là về Cecilia…
Mặc dù tôi rất háo hức muốn nói chuyện với em ấy sau khi hồi phục những ký ức cũ, nhưng tôi chỉ gặp em chóng vánh, và bản thân tôi cảm thấy không sẵn sàng bắt đầu một cuộc thảo luận mà tôi biết chúng tôi cần phải có. Vào ngay thời điểm đó, tâm trí em ấy đang bị che khuất bởi bất kỳ thứ ký ức giả nào, những ký ức mà tôi đã giúp gã Agrona phát triển. Mặc dù vậy, còn hơn thế nữa, tôi không tài nào biết được em ấy có thể đã bỏ lỡ bao nhiêu khoảnh khắc nhỏ trong kiếp trước.
Có bao nhiêu phần trong em đã khiến em trở thành người tôi yêu nhất trên cõi đời này vẫn còn nguyên vẹn? Tôi tự hỏi, cắn chặt vào lớp niêm mạc trong má cho đến khi tôi nếm thấy vị máu tanh như mùi kim loại.
Tôi nhắm nghiền mắt, nhăn hết cả mặt mũi và gồng các cơ trên người mình cứng lại, rồi thả lỏng cơ thể. Nếu bây giờ tôi chìm vào bóng tối sâu thẳm và lạnh lẽo của lối suy nghĩ kiểu này, tôi sẽ không bao giờ hoàn thành được công việc hiện tại của mình.
Thật cẩn thận, tôi đặt cái lõi trở lại bàn cơ khí thật nhẹ nhàng và kiểm tra một dãy các bộ phận xếp ra trên bàn và những trang thiết bị mà tôi đã xoay xở để lấy được một cách lặng lẽ. Mọi chuyện sẽ đơn giản hơn nhiều nếu tôi không cảm thấy cần thiết phải che giấu các hoạt động của mình khỏi thằng Agrona — hoặc che giấu khỏi bất cứ chuyện gì có thể xảy ra.
Vấn đề là tôi không thể tự mình làm mọi thứ. Chắc chắn rằng có những công xưởng bên trong pháo đài Taegrin Caelum để làm những thứ đó, nhưng mọi thứ tôi làm ở đó sẽ bị theo dõi. Và nếu tôi đặt hàng tất cả mọi vật liệu từ cùng một đám Imbuer (Kẻ Ếm Phép) và lũ thợ rèn, tôi đã mạo hiểm đưa ra quá nhiều phần trong thiết kế của mình. Và vì vậy tôi đã lặng lẽ thu thập mọi thứ từng phần một.
Làm thế sẽ để giữ mọi chuyện lặng lẽ hơn, nhưng lại không quá hiệu quả. Ngoài cái phụ kiện bị xước lúc nãy, tôi còn nhận được ba viên tinh thể mana bị xước, một mảnh gỗ charwood quá ngắn chỉ cỡ ba inch, và một đơn hàng thủy ngân tinh khiết vẫn bị nhiễm chu sa.
(Người dịch: “chu sa” tiếng Anh là “cinnabar”, có công thức hóa học là HgS. Nó là một loại khoáng sản tên Cinnabarit màu đỏ có sẵn trong tự nhiên, tìm thấy ở nơi có thủy ngân, tiếng Anh gọi là “quicksilver”)
Nhưng sự trỗi dậy của những ký ức cũ đã nhắc nhở tôi điểm mạnh của mình chính xác nằm ở đâu. Cho tới tận giờ đã quá lâu rồi, tôi toàn dựa vào sức mạnh thuần vốn có từ việc tái sinh vào một cơ thể mang dòng máu Vritra. Khả năng thông thạo ngay cả một trong những kĩ thuật dùng mana loại Decay (Phân Hủy) của tộc Vritra khiến tôi mạnh hơn hầu hết các pháp sư khác trên thế giới này, và hầu như tôi chỉ dựa vào điều đó trong suốt quá trình huấn luyện ở pháo đài Taegrin Caelum. Ngay cả mớ ấn (rune) làm mờ cả da thịt khắc dọc sống lưng tôi cũng chẳng đáng để so sánh với kĩ thuật mana này.
Nhưng với nhiều ký ức cũ của tôi trở lại dồn dập, tôi nhận ra rằng mình cũng còn một thứ khác, một thứ mà không một tên Alacrya nào khác có được.
Ở Trái đất, tôi từng là một phù thủy kỹ thuật, làm chủ các nguyên lý khoa học tiên tiến ở độ tuổi còn rất trẻ để đạt được những kỳ tích như trấn áp ki của Cecilia và làm cho em ấy sống gần như một cách bình thường. Sau cái chết của em… tôi quay cuồng, lao vào nghiên cứu, học mọi thứ về kỹ thuật, vật lý và các nghiên cứu liên quan đến ki mà tôi có thể tìm được.
Một lượng lớn kiến thức đáng ngạc nhiên này có thể trực tiếp chuyển đổi qua làm cho phép thuật hoạt động, đặc biệt là trong khía cạnh truyền mana và thiết kế đồ tạo tác. Năng lượng phải được cung cấp và truyền dẫn hiệu quả, các chỉ dẫn cho chúng phải được nhắm đúng chỗ, công suất phát ra phải cung cấp một kết quả cụ thể.
Sự hiệu quả, tôi tự lặp lại với chính mình. Đó là vấn đề thực sự. Nếu những gì tôi đang làm thực sự hoạt động, thì nó phải cho phép điều khiển mana hoàn toàn hiệu quả, không bị chậm trễ hoặc thất thoát.
Hồi ở lục địa Dicathen, tôi đã được huấn luyện để điều khiển mana trong khí quyển, không chỉ với những ấn trên lưng và những công thức phép thuật (spell formation) mà chúng cung cấp. Tôi đã đến một trong những trường dạy phép thuật tốt nhất trên lục địa và học dưới sự hướng dẫn của các giáo sư tài năng, học về các lý thuyết mana và một loại thao tác điều khiển mana mà chưa được nghiên cứu ở lục địa Alacrya.
(Người dịch: “chúng” ở đây nói cả công thức lẫn ấn)
Các pháp sư học để cách hiểu hình dạng của chú phép, tạo khuôn cho mana bằng tâm trí và ý định của họ thông qua việc tụng một chuỗi chú phép (chant) và dùng các thiết bị khác, như đũa phép chẳng hạn. Nó khó hơn và mất nhiều thời gian hơn, nhưng nó linh hoạt hơn nhiều. Các pháp sư có thể điều chỉnh sự tập trung cho ý định hay lời lẽ tụng chú phép để thay đổi đầu ra của một chú phép, hoặc thậm chí phát minh ra một chú phép hoàn toàn mới.
Còn các ấn trên lưng, mặt khác có thể thành thạo nhưng không bao giờ thay đổi. Chúng bị cố định về chú phép cũng như cố định về mặt lợi ích mà chúng cung cấp cho cả lõi và cơ thể của một pháp sư. Và nếu không có những ấn mới được phân phối rải rác và chầm chậm từ mấy thằng hầu của tên Agrona, thì không một pháp sư Alacrya nào có thể tiến bộ thực sự, kể cả lũ Scythe.
Nhưng chả có lý do gì tôi phải trông cậy vào tên Agrona để nhận được sức mạnh. Và sẽ không cần phải thế với tất cả kiến thức và kỹ năng mà tôi có để sử dụng.
Bây giờ tôi đã nhìn thấy mọi thứ rõ ràng hơn khi lõi bị hủy hoại và được tái tạo lại.
Cecilia đã làm nên một phép màu mà tôi vẫn không hiểu khi trả lại cho tôi món quà là phép thuật, nhưng điều đó không phải là không có cái giá của nó.
Lõi mana của tôi vẫn rất yếu.
Và điều đó có nghĩa là mọi người sẽ thấy tôi yếu đuối.
Nhưng thế giới đang thay đổi. Mọi thứ dần đang thay đổi quanh chúng tôi, ngày càng trở nên nguy hiểm hơn. Cecilia đã rất bận rộn kể từ khi tôi bình phục, và tôi biết chỉ có một lý do duy nhất cho việc đó.
Tên Agrona đang sửa soạn cho em ấy để chuẩn bị chiến tranh.
Nếu em nghĩ tôi quá yếu đuối, em sẽ bỏ tôi lại. Nỗi buồn sẽ hiện lên trong mắt em ấy khi làm như vậy, và em sẽ thực sự tin rằng làm thế là bảo vệ cho chính tôi, nhưng thực ra nó sẽ phá hủy chúng tôi. Em sẽ không bao giờ nhìn tôi như trước nữa, và Agrona sẽ từ từ loại bỏ tôi khỏi bức tranh tổng thể của gã. Chẳng bao lâu nữa, em sẽ chẳng là gì khác ngoài trở thành vũ khí cho hắn, và điều tệ nhất trong mọi điều là, ngoài việc biến thành vũ khí kia, em ấy thậm chí còn không biết rằng mình muốn trở thành người như thế nào nữa.
(Người dịch: “bức tranh” ở đây là bức tranh tổng thể thiết kế về một tương lai mà Agrona đã nói với Nico trong chap 362, đại khái là Agrona đã tính toán sau chiến tranh thắng lợi thì ai ở vị trí gì, quan trọng ra sao trong cái thế giới sau chiến tranh của Agrona)
Tôi đã phải ở bên cạnh em. Tôi phải bảo vệ em.
Và tôi sẽ làm bất cứ điều gì để đảm bảo rằng tôi đủ sức mạnh nhằm làm như vậy.
Với sự kiên định về mục đích của mình, tôi nhấc lên một nhánh gỗ Charwood màu đen vừa xoắn và dài - cái thứ mà tôi đã mạo hiểm đột kích vào kho chứa riêng của Agrona sau khi mẫu thử đầu tiên không đủ. Gỗ charwood đến từ quê nhà của gã Agrona ở lục địa Epheotus, cứng như thép và hoàn hảo để hoạt động với những loại phép thuật dùng cổ tự, nhưng cũng rất hiếm và đắt tiền. Cây trượng dài sáu feet có một đầu bị cùn còn đầu kia bị gãy nhìn to hơn, đó là chỗ gãy do bị bẻ ra từ một cái cây.
(Người dịch: cây gậy dài 6 feet = 1,8m)
Tôi lấy một dụng cụ nhìn giống như một chiếc thìa có miệng nông lai với con dao mổ và ấn nó vào thanh gỗ charwood dùng làm trượng này. Mana nhảy từ tay tôi sang tay cầm của cái dụng cụ, và những cổ tự ẩn dưới lớp bọc bằng da đã chuyển hóa mana thành nhiệt. Trong khoảnh khắc, cái thìa bằng kim loại được mạ đen phát ra ánh sáng màu cam.
Tôi ấn tay mạnh hơn vào thanh gỗ charwood thô này, và dụng cụ hằn sâu vào nó một chút nữa, tạo ra một làn khói mỏng có mùi vani. Tiếp thêm mana vào cơ bắp, tôi ấn dụng cụ vào thanh gỗ kéo thành một đường, nhưng vẫn chỉ cạo được một lớp cạo mỏng. Nghiến răng, tôi lặp lại quá trình này, rồi thêm lần nữa, mỗi lần như vậy lại cạo đi một lớp mỏng như tờ giấy.
Sau hai mươi phút, tôi đã cạo được một khúc lõm hơi nông trên cây trượng. Sau một giờ, tôi đã có một cái lỗ gồ ghề. Trong vòng hai giờ, tôi đã tạo ra được một rãnh viền rất chuẩn xác.
Tiếp đến, tôi lấy một trong những phụ kiện bằng kim loại kia, kiểm tra kỹ lưỡng để đảm bảo mẩu phụ kiện được chế tác hoàn hảo. Tôi ấn nó vào cái rãnh viền, sau đó lấy một cái búa nhỏ và gõ phụ kiện dính vào cái rãnh. Tiếng leng keng từ cái búa gõ nhấn chìm mọi tiếng động nhỏ nhẹ khác trong lâu đài, chẳng hạn như tiếng những người hầu di chuyển tới lui trong hành lang bên ngoài và át luôn tiếng những vụ nổ phép thuật từ một trong mấy phòng huấn luyện bên dưới.
Sau khi đặt chiếc búa xuống, tôi kiểm lại các thành quả: phụ kiện bạc đã khớp vào vết rãnh đục rất hoàn hảo, và đột nhiên cái que nhìn đơn giản giờ trông có gì đó khác lạ hơn bình thường. Không còn là một mẫu gỗ tự nhiên, mà thành một thứ gì đó được chế tạo thủ công và có mục đích.
Lấy một món khác từ bàn làm việc, tôi trượt một viên ngọc hình lục giác vào khớp của phụ kiện. Viên đá đỏ tươi nhìn như màu máu và tối sẫm lại trên nền gỗ đen cùng kim loại bạc. Nhưng tôi không gắn cứng luôn viên đá vào gậy. Thay vào đó, tôi lắc cho nó lỏng ra và đặt nó trở lại bàn, xoay qua mặt sau cây gậy và nhấc dụng cụ chạm khắc lên lần nữa.
“Nó trông có vẻ như một dự án đầy hấp dẫn.”
Tôi quá giật mình đến nỗi cào cái dụng cụ đang nóng rực qua các đốt ngón tay của mình. Nó nóng đến mức xuyên qua lớp rào chắn mana tôi phủ trên tay và cà vào lớp da thịt. Tôi buông lời chửi thề và ném thứ dụng cụ ngu ngốc lên bàn.
"Ồ xin lỗi!" Cecilia vội vàng đến bên cạnh tôi, cúi xuống và nắm lấy tay tôi.
Tôi lo lắng tự hỏi em đã đứng đó bao lâu, rồi nhận ra rằng em ấy hẳn đã bước vào trong khi tôi đang gõ búa.
Em ấy cắn môi khi kiểm tra vết thương, và lúc nhìn vào mắt tôi, mắt em đang sáng lên. “Anh ổn chứ?”
“Ổn,” tôi nói với giọng thô cứng, rồi đế thêm, “Anh ổn mà,” với giọng nhẹ nhàng hơn.
Mana chảy ra khỏi đầu ngón tay em ấy và phủ khắp vết thương, làm mát da thịt và xoa dịu vết bỏng rát. Mana của chính tôi cũng đã tuần hoàn khắp cơ thể để tăng cường tốc độ hồi phục.
“Thực sự thì anh vui khi có em ở đây,” tôi nói thêm sau một khoảng dừng khó xử khi cả hai chúng tôi chỉ nhìn chằm chằm vào vết đứt tay. “Anh cần nói chuyện với em về một số thứ.”
Em ấy mỉm cười với tôi và đảo mắt nhẹ nhàng về phía cửa. “Em e rằng chuyện đó phải để sau. Agrona đã cho gọi chúng ta. Gọi tất cả các Scythe, và cả em.”
Khi nghe tin này, tôi cảm thấy giọng em mang theo sự lưỡng lự. Rất hiếm khi tất cả các Scythe được tập hợp cùng lúc.
“Em có—”
“Không, nhưng hắn ta… nổi giận,” cô nói chậm rãi. “Em chưa bao giờ thấy gã ấy như thế này trước đây.”
Tôi muốn nói với em ấy rằng em đã không ở cạnh thằng đó lâu như vậy, không biết gì nhiều về hắn cả, chưa từng thấy hắn ở thời điểm hắn trở nên tệ nhất, nhưng tôi giữ những suy nghĩ này lại riêng mình. Dù tin này là về chuyện gì đi nữa thì cũng chẳng tốt lành gì khi thằng Agrona này để cho sự khó chịu của hắn bộc lộ ra ngoài mặt như thế.
Trước khi từ phòng mình theo Cecilia đi, tôi dành một chút thời gian để ngó qua bàn làm việc. Tôi lấy giẻ lau sạch máu của mình trên dụng cụ chạm khắc, nghịch ngợm vài món đồ để xếp chúng gọn vào các vòng tròn cổ tự tương ứng của chúng, rồi tôi nhận ra sẽ cực kỳ ngu ngốc nếu để nó ở đây khi tôi rời đi, tôi lén lút chộp lấy cái lõi và nhét nó vào túi lót bên trong áo khoác của mình.
“Dù sao thì anh đang làm gì thế?” Cecilia hỏi khi chúng tôi bước ra sảnh.
Tôi quay lưng lại và tạo khóa mana khóa cửa phòng. “Ồ, thực ra không có gì đâu, nó là…”
Em ấy nhếch mép cười với tôi và giọng tôi tắt dần. “Em có thể chỉ ra rằng đó là điều mà anh đang rất hào hứng. Tất nhiên là anh không cần phải nói với em, nhưng em mừng vì anh đã tìm được thứ để làm bản thân bận rộn.”
Thọc tay vào túi, tôi lấy ngón cái xoa cái lõi qua lớp vải lót, nhưng tôi không giải thích thêm chi tiết gì với em ấy.
Cecilia đi dọc theo hành lang rồi rẽ phải thay vì rẽ trái, khiến tôi bất ngờ.
“Chúng ta không đi đến cánh hành lang dẫn tới các phòng riêng của Agrona sao?” Tôi hỏi, vội theo sau em ấy.
“Không. Hắn đã gọi tất cả chúng ta đến khu vực Obsidian Vault (Phòng Hắc Diệu Thạch).”
Tôi không có gì để nói về chuyện này. Tôi thậm chí còn không chắc mình đang cảm thấy gì. Obsidian Vault là nơi các đối tượng có thứ hạng cao nhất của Agrona nhận được các ấn của chúng nó: lũ Wraith, bọn Scythe, đám retainer và thi thoảng thậm chí là những chiến binh thượng huyết tộc hay các ascender thu hút sự chú ý của tên Agrona.
(Người dịch: Vault trong tiếng Việt dịch thành “hầm” là mô tả không chính xác về từ này trong tiếng Anh. Vault là một không gian kín và thường lớn, được gia cố xung quanh bằng kim loại. Để dễ hình dung, hãy nhớ tới các bộ phim Hollywood có yếu tố cướp ngân hàng, tiền trong kho của ngân hàng được để trong một cái phòng kín bọc nhiều lớp thép to khổng lồ, bên ngoài là cửa xoay có mã khóa cao cấp, đó là một cái “vault” tiêu biểu. Có hình minh họa bên dưới)
Chỉ có một lý do duy nhất để hắn gọi chúng tôi đến Obsidian Vault.
Sẽ có một buổi lễ ban ấn. Suy cho cùng có lẽ đó không phải là tin xấu.
“Anh Nico, em muốn nói…” Giọng của Cecilia khiến tôi rút khỏi suy nghĩ mông lung của mình, và quay lại nhìn em ấy.
Tôi sẽ học cách hiểu và chấp nhận sự thay đổi về ngoại hình của em, cũng như tôi đã chấp nhận về sự thay đổi của mình. Giờ đây nhìn những nét tuyệt mỹ của tộc elf—cặp tai nhọn, đôi mắt hình quả hạnh và mái tóc màu xám bạc mà em ấy cứ dọa sẽ nhuộm—mặc dù chúng gói gọn với mọi ký ức của Elijah về cô gái tên Tessia Eralith, chúng lại đã gây ra nhiều mâu thuẫn hơn ngoại hình của tôi cả kiếp trước và kiếp này.
“—rằng em xin lỗi vì đã không ở quanh đây nhiều hơn trong mấy ngày vừa qua. Em đã muốn nói chuyện với anh—em chắc chắn rằng việc biết rồi hiểu lẫn chấp nhận với những gì đã xảy ra tại sự kiện Victoriad là rất khó khăn với anh—nhưng có rất nhiều điều thứ đang xảy ra ở cả hai lục địa Dicathen và Alacrya, và gã Agrona khiến em bận rộn một cách bất thường, vậy nên…”
Chuyện này chỉ xác nhận những gì tôi đã đoán. Tên Agrona đã sẵn sàng cởi xích cho Cecilia, tung em ấy vào cuộc chiến thực sự.
Đầu óc tôi nhanh quay lại vụ cây trượng, mà tôi để lại trong phòng, và tôi đột nhiên cảm thấy xót xa vì khoảng thời gian lãng phí này. Dù thằng Agrona sắp nói gì, điều đó không quan trọng bằng việc tôi đảm bảo rằng mình có đủ sức mạnh để bảo vệ Cecil.
Một bàn tay hạ nhẹ nhàng xuống vai tôi, và tôi nhận ra rằng thêm lần nữa mình lại trở nên mất tập trung.
"Nico, anh chắc là anh ổn chứ?" Cecilia hỏi, sự lo lắng vẽ thành những lằn nhăn trên khuôn mặt vốn hoàn mỹ của em ấy.
“Như em đã nói, chuyện đó đã rất… khó khăn. Anh xin lỗi vì đã bị phân tâm. Chỉ là có… rất nhiều thứ trong đầu anh.”
Em ấy cười một nụ cười nhân hậu và thấu hiểu nhất mà tôi có thể tưởng tượng nổi, và những ngón tay của em lướt qua má tôi. “Đừng xin lỗi em. Chúng ta là hai người duy nhất có thể thực sự hiểu những gì người kia đã trải qua.” Cảm xúc dâng trào trong lòng tôi, lấp đầy lồng ngực với một vị ngọt ấm áp, và rồi em ấy chèn thêm, “Chà, tất nhiên là ngoại trừ gã Agrona,” và cảm giác ấy trở nên khô héo và tan biến mất.
Tôi đi theo Cecilia xuống một chuỗi cầu thang hẹp, quanh co và vào một đường hầm được khoét gồ ghề. Tận cuối đường hầm, chúng tôi bước vào một căn buồng phòng được chạm khắc bằng đá đen nhẵn và gợn sóng, thứ đá này sáng lấp lánh ánh màu tím, như thể chính thứ đá này tự phát ra ánh sáng từ bên trong nó.
Agrona đã ở kia rồi.
Hắn đứng trước một cánh cửa đôi được chạm khắc hình ảnh một con basilisk đã biến hình với thân dài và ngoằn ngoèo như rắn cuộn lại thành hình chữ “V” và đôi cánh bằng da gập sát vào bên hông. Các ấn đang rơi từ móng vuốt của hắn xuống hàng loạt những khuôn mặt đang nghểnh lên. Tên Agrona đang ban phép thuật cho người dân. Nhìn bức chạm khắc này làm tôi luôn thấy thanh thản, bằng cách nào đó quang cảnh của nó vừa làm cảm thấy mạnh mẽ và bình yên cùng một lúc.
(Người dịch: Theo như cách dùng từ hạn định của tác giả là “his claw” thì có lẽ bức chạm khắc trên cửa đôi hai cánh này là hình dạng thật của Agrona khi biến đổi về lại dạng Basilisk)
Còn thằng Agrona thật, đang đứng trước bức chạm khắc và khoanh tay trước ngực với khuôn mặt đang phủ một thái độ thể hiện sự không hài lòng, hoàn toàn trái ngược với bức chạm khắc kia.
Hai ả Melzri và Viessa cũng đã ở đó luôn. Tôi sững sờ khi thấy cặp mắt hai ả đàn bà đầy quyền lực này lảng đi chỗ khác, thu mình lại như hai con lươn đầu phát sáng lén lút đang lấy mũ trùm phủ kín đầu để trông càng nhỏ bé và càng ít tỏ vẻ đáng sợ nhất có thể. Đó không phải là dáng vẻ mà tôi từng thấy ở hai ả Scythe trước đây.
(Nguyên văn: “two thief-lamp eels drawing their hoods over themselves” tác giả chắc tự chế cụm từ “two thief-lamp” vì google không có kết quả nào hết)
Đằng sau mỗi tên Scythe là một đứa retainer.
Tôi đã quá quen thuộc với nhỏ Mawar, “Bông hồng đen của vùng Etril.” Khoác lên mình chiếc áo choàng mỏng và đen tuyền, con nhỏ gần như biến mất trong bóng tối của gian phòng chờ này, tất nhiên là ngoại trừ mái tóc ngắn màu trắng của con này, sáng đến mức dường như tỏa sáng. Mặc dù chỉ lớn hơn tôi chút tuổi - hoặc, ít nhất là tuổi của cơ thể này - nhỏ này đã là retainer của Viessa trong gần bốn năm, và chúng tôi đã được huấn luyện cùng nhau rất nhiều.
Mặt khác, phù thủy độc dược Bivrae, tôi thường hay né gặp mụ ta. Nhìn ả như là một sinh vật ghê rợn, giống như ai đó cắm cả chùm que bị gẫy bằng bùn lầy vào thân và rồi treo mấy tấm giẻ rách cũ nát như da chuột lên người làm để làm quần áo. Lạc quan nhất mà nói thì mấy người anh em của mụ này cũng là những pháp sư nhớp nháp như vậy, với thằng anh Bilal không cầm chân nổi nhỏ Tessia Eralith đủ lâu để chờ tôi đến, và dĩ nhiên là chết trong khi làm thế.
Con Mawar có sự nhạy bén đủ tốt nên ánh nhìn của nó tập trung vào lưng ả Melzri, nhưng mụ Bivrae này nhìn chằm chằm vào Cecilia và tôi khi chúng tôi bước vào gian phòng chờ, và không buồn rời ánh nhìn của ả ta đi chỗ khác cho đến khi, vài giây rất dài sau đó, những bước chân nặng nề thông báo một sự xuất hiện khác.
Thằng Dragoth phải cúi xuống khi đi qua đoạn đường hầm nối để sừng hắn không cà lên trần hầm kêu kèn kẹt, và khi bước vào phòng chờ, thằng này đứng thẳng người lên và vươn vai một cách thản nhiên. Cười toe toét đầy bất cẩn với gã Agrona, thằng này bước vòng qua tôi và Cecilia để đứng ngay trước mặt chúng tôi, lưng hắn ta rộng đến mức che cả hai chúng tôi khỏi ánh nhìn của tên Agrona.
Theo sau thằng Dragoth là một pháp sư mà tôi chỉ biết nhờ tên và danh tiếng, chứ chưa thấy bao giờ: Echeron, retainer mới của thằng này. Gã đàn ông cao và đẹp như người mẫu. Những chiếc sừng mã não ngắn nhô ra như mấy cái gai từ mái tóc vàng được chải chuốt cẩn thận của hắn. Ánh nhìn từ đôi mắt xám bạc của hắn chạm mắt tôi, và những đường đẹp như chạm như khắc trên mặt tên retainer này co giật thành nét cau có trước khi quay lại nét mịn màng. Hắn đứng ngay bên cạnh tôi và ngay sau lưng thằng Dragoth.
Sự im lặng bao trùm cả gian phòng chờ, càng kéo dài càng khó chịu.
Ở bên cạnh, tôi có thể cảm nhận được sự thất vọng của Cecilia tỏa ra từ như một luồng khí (aura) bao phủ toàn thân khi đôi mắt màu ngọc lam của em nhìn như muốn đốt cháy vài lỗ trên lưng thằng Dragoth.
Bất cứ cảm giác đe dọa nào mà tôi biết em ấy từng cảm thấy khi có sự hiện diện của đám Scythe đều biến mất, nhưng tôi không chắc điều gì dẫn đến cảm xúc hiện tại của em. Có một cơn nôn nao đến phát bệnh trong lòng mình khi tôi liên kết nỗi sợ hãi đang ấp ủ của hai ả Melzri và Viessa với sự tức giận sắp bùng nổ của Cecilia.
Hai con ả Scythe này đã làm Agrona thất vọng vì chuyện gì đó.
Đó là thứ mà tôi đéo thèm quan tâm, nhưng chứng kiến việc Cecilia đang trở nên trung thành và gắn bó với Agrona như thế nào là một nỗi kinh hoàng dần dần ló dạng mà tôi không biết phải xử lý ra sao. Việc này gần giống như nhìn vào cái gương rồi thấy một phiên bản trẻ hơn nhiều của mình, nhớ lại cái hồi tôi lao mình vào Núi Nishan theo lệnh của thằng Agrona.
Một cái lạnh thấu xương đột nhiên bắt đầu rỉ ra khắp phòng, tạo thành những tinh thể sương đọng khắp tường và sàn nhà, thậm chí cả trên lớp vải áo khoác tôi mặc.
Rồi gã Agrona bắt đầu nói.
“Đầu tiên, các ngươi làm ta thất vọng ở vụ Victoriad, để thằng nhóc Arthur Leywin trốn thoát, rồi giờ bằng cách nào đó các ngươi đối phó sao để mất cả vùng Sehz-Clar vào tay một kẻ phản bội.”
Tâm trí tôi như bị kẹt ở mấy lời này, như thể một bánh của toa xe kéo hằn dấu xuống mặt đường.
Vùng Sehz-Clar, bị mất à? Cái gì chứ? Và rồi đầu tôi đã xử lý để hiểu sự vắng mặt của Seris và tên retainer của ả ta.
“Cuối cùng, hai trong các Scythe của ta rút lui trước một địch thủ bị trọng thương sắp hấp hối, bỏ lại Dicathen dưới quyền của một con retainer duy nhất, đứa mà giờ chúng ta cũng mất liên lạc.”
Đôi mắt đỏ tươi đầy giận dữ của thằng Agrona quét qua khắp gian phòng, bùng cháy như lửa địa ngục ở bất cứ nơi nào mà cặp mắt đó dừng lại.
“Xin tha lỗi cho chúng tôi, hỡi Chúa tể Tối cao, chúng tôi sợ rằng—”
Hơi thở trở nên dồn dập trong phổi ả Melzri khi tên Agrona dốc toàn bộ áp lực (force) từ cơn giận dữ của mình lên ả, và bất cứ lời cầu xin nào ả ta định thốt ra đều chết lặng trên môi ả.
(Người dịch: “Force” ở đây chính là King’s Force - Vương Lực)
“Các ngươi thật yếu đuối.” Hắn ngừng nói một chút, để cho lời tuyên bố này chìm sâu vào đầu từng người. “Kẻ thù đã phát triển mạnh hơn các ngươi. Tuy nhiên, cũng nhiều như mức các ngươi đã làm ta thất vọng, ta sẽ không trút toàn bộ lỗi lầm lên đầu các người.” Hắn buông tay xuống không khoanh nữa và tiến đến đứng trước mặt Melzri, vuốt ve cái sừng của ả. “Ta đã cho các ngươi sức mạnh mà các ngươi cần để diễn đúng vai mà ta đã chỉ định các người phải diễn. Bây giờ, dường như vai diễn của các ngươi sẽ phải thay đổi. Kẻ thù của chúng ta đã phát triển lên, vậy nên các ngươi cũng phải như thế.”
Ả Melzri ngay lập tức quỳ xuống. “Xin ngài, hỡi Chúa tể Tối cao. Hãy cho phép tôi là người đầu tiên bước vào Obsidian Vault.”
Không có chút cảm xúc nào làm hằn nét lên gương mặt bình thản của thằng Agrona khi hắn ta nhìn xuống sau đầu ả ta. Ngừng một quãng ngắn, hắn nói đơn giản, “Không.”
Rồi hắn quay lại và băng qua gian phòng chờ để đứng trước mặt Dragoth. Khi hắn ta làm thế, khoảng phân bố tỷ lệ (proportion) của căn phòng và mọi người trong đó dường như có sự thay đổi, do đó thằng Scythe này và gã Chúa tể Tối cao kia có chiều cao bằng nhau.
(Người dịch: cách ví von của tác giả trong tiếng Anh có vẻ khó hiểu cho người đọc, để dễ hiểu về tỷ lệ này, tức là nhìn theo chiều ngang khắp phòng, thì cả lũ chiều cao xêm xêm nhau, với Dragoth và Echeron cao kều đứng một bén, dãy hàng bên kia Agrona cao kều đứng với Melzri, Viessa, cho nên nhìn qua khá là cân về tỉ lệ chiều cao giữa hai nhóm đứng. Nhưng khi Agrona di chuyển qua đứng chỗ Dragoth thì độ phân bố chiều cao trong phòng lệch hẳn qua một nhóm)
Tôi chớp mắt vài lần, cố đẩy đi cái sự kích động kỳ lạ trong cảm giác.
Khi tôi đã làm đầu mình tỉnh táo, thằng Agrona lại lên tiếng. “Trong số bốn Scythe còn lại của ta, chỉ có một kẻ đủ dũng cảm để đối mặt với Arthur Leywin trong trận chiến. Đám còn lại các người đứng ngoài lề tại đại hội Victoriad, để mặc cho kẻ giỏi nhất và đứa kém nhất trong số các người gục xuống.”
(Người dịch: “the best” ở đây là Cadell, “the worst” ở đây là Nico, chắc các bạn cũng đã hiểu ý đồ của tác giả khi trận Victoriad cho Scythe mạnh nhất và yếu nhất cùng đánh với Grey. Khi đứa yếu nhất đến đứa mạnh nhất đều bị hạ bởi cùng một người, thì chứng tỏ lũ ở giữa cũng chỉ là đồ vô dụng)
Tất cả các khối cơ to đến độ phi thường của thằng Dragoth đều tỏ ra căng thẳng, rồi thằng ngu này loạng choạng đứng lết sang một bên, làm tôi nhìn rõ tên Agrona hơn.
Gã Agrona đang nhìn thẳng vào tôi. “Hôm nay, thứ tệ nhất trong các Scythe sẽ là kẻ đầu tiên vào Obsidian Vault.”
(Nguyên văn: “the least of the Scythes” sẽ có giải thích cuối chương)
Tôi cứng người bởi ngạc nhiên. Những lời chế nhạo và móc ngoáy kiểu vậy không có gì mới, nhưng trong trường hợp này, có vẻ như gã Agrona đang dành cho tôi một lời khen gián tiếp thay vì một sự xúc phạm thẳng mặt. Một bàn tay mềm mại đặt lên giữa bả vai tôi, và tôi quay lại nhìn Cecilia đang mỉm cười khích lệ.
Tôi bước tới.
Cánh cửa phòng được chạm khắc mở ra khi hai tên pháp sư mặc áo choàng đen đẩy nó ra từ bên trong. Tên Agrona ra hiệu về phía khe cửa đang mở để lũ pháp sư dựa lưng vào tường và chờ đợi.
Tôi lưỡng lự. Không phải lưỡng lự về chuyện tôi có khả năng từ chối bước vào dù tôi muốn từ chối, cơ mà thực ra tôi chẳng muốn từ chối đâu, mà là lưỡng lự về chuyện tôi không thể không tự hỏi tại sao thằng Agrona này lại thực sự đẩy tôi vào trước. Liệu có phải đó chỉ là một chiến thuật để kích thích đám Scythe kia hăng hái lên, hoặc có thể hắn chỉ muốn xem tác động của việc ban ấn cho tôi sau khi lõi tôi bị phá hủy và rồi được sửa chữa lại…
Kế hoạch lồng trong kế hoạch, tôi tự nhắc nhở mình.
(Nguyên văn: “Games within games”)
Di chuyển chậm rãi nhưng có mục đích, tôi bước vào Obsidian Vault và đi qua giữa hai tên pháp sư, chúng đóng hai cửa sau lưng tôi lại.
Obsidian Vault là một chỗ sáng chạng vạng kỳ lạ. Các bức tường, trần nhà, thậm chí cả cầu thang đi xuống, tất cả đều được tạo hình từ đá hắc diệu thạch màu đen và ánh tím phản chiếu.
Cầu thang bằng phẳng đi xuống một hồi lâu. Sau lưng tôi, những bước chân nhẹ nhàng của đám pháp sư theo sau, tiếng thì thầm của chúng như cái bóng theo sau bước chân vang lớn hơn của tôi. Sau khi đi chừng vài phút, chuỗi cầu thang kết thúc bằng một cổng vào kiểu mái vòm mở.
Căn phòng đằng sau mái vòm không lớn, nhưng cách mà ánh sáng lấp lánh trên hàng triệu nếp gấp và cạnh viền của trần nhà khiến nó trông giống như bầu trời đêm mở ra trên đầu tôi, tỏa sáng như bình minh nhưng có màu tím.
Giống như Chòm Sao Aurora ở lục địa Dicathen, tôi lơ đãng nghĩ, ký ức đầu tiên về những hiện tượng xa xôi đó như phủ một lớp hồi phục lên tâm trí đang dần được chữa lành của tôi.
Chính giữa căn phòng là nơi một bệ thờ (altar) chiếm chỗ, nó là một phiến gỗ charwood đặt lên mặt đá hắc diệu thạch đủ lớn để một người đàn ông có thể nằm xuống. Nó đang tỏa ra sức mạnh.
Tôi nghĩ là thật kỳ lạ. Tôi chưa bao giờ cảm nhận được sức mạnh đó trước đây, mặc dù tôi đã đến căn phòng này nhiều lần trong suốt cả đời.
Có gì đó đã thay đổi.
Suy nghĩ của tôi ngay lập tức chuyển sang những đồ đạc trong túi, thứ mà tôi không thể thuyết phục chính mình bỏ lại trong phòng mà không được bảo vệ. Tôi cũng nhớ lại, những ánh sáng màu tím mà tôi đã thấy khi chạm vào cái lõi, sâu xuống ngục tối, cách mà tôi thấy thứ ánh sáng này chiếu xuyên qua lõi như thể cái lõi là một loại thấu kính thì trông ra sao. Mặc dù tôi đã cố gắng tạo lại các hiện tượng này vài lần, nhưng tôi đều thất bại.
Gần như tự nhiên xảy ra không theo chủ ý của tôi, tay tôi tự luồn vào túi và nắm lấy cái lõi.
Không có chuyện gì xảy ra cả.
Buổi lễ ban ấn đột nhiên có vẻ tầm thường và chẳng quan trọng nữa. Tôi muốn tìm hiểu sâu hơn về cảm giác này, nhưng hai tên pháp sư—lũ quan chức hành lễ (officiant) của buổi ban ấn—cái bọn đã theo tôi xuống cầu thang đang đứng ở hai bên hông tôi, với tay lấy áo khoác, rồi đến viền áo sơ mi, cố gắng kéo quần áo ra khỏi người tôi.
Sự lo lắng và sợ hãi tràn ngập trong tôi khi nghĩ đến việc bọn chúng tìm thấy lõi của Sylvia. Tôi muốn đẩy cái lũ người này ra, nhưng biết rằng điều đó là vô ích. Dù có bất cứ chuyện gì xảy ra ở đây, tôi cũng phải tuân theo các nghi thức mà buổi lễ yêu cầu. Những tên quan hành lễ này sẽ không cho phép biến tấu gì ở đây hết, và tôi kinh hãi khi nghĩ thằng Agrona có thể sẽ làm gì tôi nếu tôi làm hại bọn chúng bằng bất kỳ cách nào. Lũ này không phải là đám nhà nghiên cứu tầm thường được giấu trong mấy ngục tối, bọn quan chức hành lễ này là chìa khóa để Agrona nắm giữ cả lục địa Alacrya, và tự tay hắn sẽ lột da bất kỳ gã đàn ông hay ả đàn bà nào làm trái ý bọn chúng, kể cả tôi.
Tôi làm theo yêu cầu của bọn chúng như cái máy mà không suy nghĩ gì. Một gã đàn ông mà tôi không để ý—do tôi bị phân tâm khi đứng cạnh bệ thờ—di chuyển ra khỏi bóng tối và đến vị trí phía đối diện bệ thờ. Lớp đá hắc diệu thạch xung quanh chỗ tôi đứng được khắc một vòng tròn gồm các cổ tự cách nhau hơi rộng, và tôi biết đặc điểm tương tự được bài trí trên sàn xung quanh chỗ đứng của tên quan chức thứ ba.
Hai tên kia hướng dẫn tôi đến tâm của vòng tròn cổ tự, nơi tôi quỳ xuống. Hai bàn tay tôi đặt trên bề mặt của bệ thờ bằng gỗ charwood, cẩn thận đặt lên trên hai biểu tượng phép thuật (sigil) nhìn phức tạp, mỗi cái tạo hình từ nhiều cổ tự nhỏ kết nối lại với nhau.
Đối diện với tôi, tên quan chức kia nhấc cây trượng của hắn ra khỏi chỗ đang gác tạm vào bệ thờ. Nó gõ lốc cốc xuống sàn ba lần, gây ầm ĩ trong sự tĩnh lặng ở đây. Hai tên còn lại đi vòng ra sau tôi, mỗi tên cầm một trượng ban nãy được đặt dựa vào hai bên của lối vào của cổng hình vòm.
Không có tiếng tụng chuỗi chú phép nào cả. Cũng chẳng có lời hướng dẫn nào hết. Không gì khác ngoài nguồn sức mạnh của bệ thờ tỏa ra trong yên lặng như thể sức nặng tinh tế của ngọn núi, và chuyển động nhẹ nhàng tự tin của ba tên pháp sư trùm đầu.
Từ phía sau, hai viên pha lê lạnh lẽo ấn vào hai bên xương sống tôi.
Đáp lại là sự ấm áp và luồng sức mạnh rung động gây căng thẳng thần kinh chạy từ hai bàn tay tôi đang đặt trên bệ thờ lên dọc theo cánh tay, dẫn lên vai và dựng cả tóc gáy. Cuối cùng, nó chạy dọc xuống sống lưng tôi để đến hai điểm lành lạnh của hai viên pha lê kia.
Trong một khắc, tôi đã sợ hãi. Tôi chưa bao giờ cảm thấy bất cứ điều gì như thế này trong lần ban ấn trước đây.
Chuyện quái gì đang xảy ra ở đây vậy?
Những rung động được tích tụ rồi lại tích tụ, phát triển từ cảm giác ngứa ngáy, đau nhức thành một cơn đau rõ rệt. Tôi chắc chắn có điều gì đó không ổn, muốn hét vào mặt mấy thằng quan chức kia, nhưng hàm bị khóa chặt, cơ bắp căng đến mức không thể phản ứng.
Ở đâu đó rất xa, hay nó chỉ là tiếng vang từ bộ não đang loạn lên vì đau của tôi, có một giọng nói lạo xạo thốt lên lời cầu nguyện với Vritra.
Tôi bắt đầu run rẩy và đổ mồ hôi. Tôi run từ đầu đến chân. Rồi thì giống như tay nắm chặt đang thả lỏng ra, cơn đau giảm dần.
Căn phòng như chao đảo, và tôi lẽ ra đã đổ sập xuống nếu không có mấy bàn tay mạnh mẽ của hai tên quan chức hành lễ. Chúng kéo tôi thẳng người lên và lúng túng tròng áo sơ mi qua đầu tôi, rồi kéo mạnh tay tôi vào áo khoác.
Tôi bị kéo đi giữa hai tên này, lôi lên cầu thang một cách vụng về, từng bước một. Sau lưng tôi, tôi nghe thấy tiếng lật mảnh giấy da và tiếng lầm bầm câm lặng của thằng quan chức hành lễ thứ ba.
Lõi tôi bắt đầu đau dữ dội.
Một tên giữ tôi trong khi tên còn lại vật vã đẩy hai cánh cửa đá khổng lồ mở ra. Khi một cánh cửa cuối cùng cũng bật ra khỏi khung cửa và xoay hướng ra ngoài một cách nặng nề, nước mắt tôi trào ra khi gặp ánh sáng, và tôi chỉ có thể chớp mắt trở lại khi chúng chảy thành hàng dọc theo má tôi vừa ướt vừa ấm.
Tôi được kéo ra khỏi dãy cầu thang đưa vào phòng chờ. Dù đôi mắt mờ mịt mệt mỏi, tôi vẫn liếc quanh nhìn những khuôn mặt ngạc nhiên đang há hốc nửa mồm ra. Khi ánh mắt lờ đờ của tôi nhìn tới Cecilia, nó dừng lại ở em ấy. Vẻ rạng rỡ từ mái tóc xinh đẹp và chiếc áo choàng chiến trận màu ngọc lam của em nổi bật so với mọi thứ còn lại như trăng giữa bầu trời không ánh sao. Sự lo lắng đã khắc sâu vào nét mặt, nhưng em ấy đang kìm chế nó lại.
“Chuyện gì xảy ra với hắn ta vậy?” Giọng của ả Melzri tỏ dấu hiệu lo lắng.
“Buổi lễ ban ấn có thất bại không?” Một giọng siêu trầm. Giọng của thằng Agrona. Giọng nói chậm chạp lười biếng, gần như đang nhàm chán. Chẳng có gì ngạc nhiên cả. Giống như hắn ta đã nghĩ trước rằng tôi sẽ thất bại…
Đột nhiên tôi bị lôi xoay người lại, và áo sơ mi tôi đang mặc bị kéo lên để không khí lạnh ùa tới ngấu vào da thịt đang nóng hổi của tôi.
Đang có lời nói phát ra. Nhiều lời nói hơn, nhưng càng lúc càng khó hiểu hơn.
Tôi chật vật quay đầu lại, nhìn ngang qua vai. Cecilia đưa tay che miệng, lông máy nhíu lại tỏ vẻ lo lắng. Một loạt cảm xúc hiện lên trên những khuôn mặt mờ ảo—tò mò, bối rối, khó chịu— rồi những nét mặt mờ ảo của Agrona hợp nhất lại khi hắn nghiêng người về phía trước để nhìn rõ hơn, biểu cảm của hắn thì không thể hiểu được.
(Người dịch: chỗ này là góc nhìn của Nico, và mọi thứ thuật lại theo mô tả cảm giác của Nico khi hắn đang mệt nên nhìn mọi thứ mờ mịt, chỉ khi Agrona đưa mặt tới gần lưng hắn để xem, thì hắn mới thấy rõ nét mặt là của Agrona)
Một ấn regalia, tên quan chức hành lễ đang nói, nhưng… có gì đó mới ư?
Một ấn gì đó không được ghi chép lại trong các pho sách cổ (old tome).
Rồi thì sự mệt mỏi, sự lưỡng lự cùng với cơn nhức sâu thăm thẳm trong lõi tôi đã phô bày ra quá đủ rồi, và bóng tối dần bao trùm lấy tôi. Tôi sẵn lòng đón nhận nó.
(Người dịch: đón nhận lấy bóng tối ở đây là mệt quá ngất xỉu nên chỉ thấy một màu tối thui, chứ không có nghĩa gì khác)
Tác giả: TurtleMe
Người dịch: Nightmoonlight
GÓC NHÌN CỦA NICO SEVER
Các vật tạo tác chiếu sáng đặt trên bàn cơ khí (workbench) mà tôi đang làm việc tỏa ra ánh sáng trắng tinh khiết chiếu vào một mớ các bộ phận xếp thành dãy trải dài trên bàn bằng gỗ sậm màu. Các cổ tự (rune) màu bạc chạy quanh mép bàn và khắp mặt bàn, chúng được ếm phép thành các hình vòng tròn có kích thước khác nhau.
(Người dịch: Bàn workbench trong tiếng Anh ám chỉ loại bàn được thiết kế để đặt hoặc gắn sẵn máy móc dùng làm dụng cụ làm việc, hoặc đục các rãnh đặt đồ, gắn đồ các kiểu, có thể là bàn của thợ cơ khí, bàn của thợ mộc, v.v… Từ này trong tiếng Việt không có nghĩa tương đương, những nơi bán bàn hay gọi nó là “bàn đa chức năng” và cụm từ này không chính xác với từ workbench, hãy xem hình minh họa phía dưới)
Tôi cầm hai vật gần giống nhau lên: chúng là những phụ kiện hình lục giác với một loạt các rãnh và những vết chạm khắc bị khắc sâu vào tận trong. Cả hai đều làm từ hợp kim bạc chứ không phải bạc nguyên chất - vì tôi đoán rằng làm bằng hợp kim bạc như thế sẽ khiến chúng có thể hoạt động tốt hơn khi chứa các tinh thể (crystal) mana đang hoạt động, nhưng tôi sẽ phải thử nghiệm để xem loại bạc nào giữ được mana tốt hơn và dẫn đến kết quả là truyền mana tinh khiết hơn.
Có cả nghìn biến số cần cân nhắc khi thực hiện một dự án truyền mana phức tạp như thế này, và tôi không chấp nhận gì khác ngoài việc nó phải hoàn hảo.
Nhìn vào hai món phụ kiện, mắt tôi bắt gặp một vết xước khiếm khuyết trên cạnh rìa của một trong mấy rãnh ngầm này. Thở ra một hơi chán nản, tôi liệng nó trở lại trên mặt bàn cơ khí làm bằng gỗ charwood kia.
(Người dịch: “charwood” là tên một loại gỗ do tác giả tự chế ra, từ “charcoal” mới thực sự có nghĩa là “than củi”)
Thế là lại thêm lần trì hoãn nữa. Vết khiếm khuyết đó sẽ ngăn tinh thể mana không được đặt đúng vị trí. Và tôi sẽ phải đặt lại một bộ phận thay thế từ gã thợ bạc khác.
Mắt phải co giật, và một ký ức khác hồi ở Trái đất (Earth) chiếm lấy sự tập trung của tôi.
Trong ký ức đó, tôi có lẽ tám hoặc chín tuổi, ngồi một mình đằng sau trại trẻ mồ côi. Cầm trong tay một con dao nhỏ loại bỏ túi, tôi đang chuốt một cái que mà tôi lượm trên đường. Chẳng có gì đặc biệt cả, chỉ là khắc một đống vòng tròn quanh cái que để vờ biến nó thành một chiếc đũa thần đồ chơi.
Tôi chỉ khoét được hơn nửa cây gậy thì con dao trượt tay, cứa sâu vào ngón cái. Đau đấy nhưng tôi sợ bị bắt gặp đang chơi với dao hơn. Hiệu trưởng Wilbeck đã tịch thu nó và mắng cho tôi một trận, rồi tôi phải gặp cái ánh nhìn đầy ngu ngốc kiểu tao-cảm-thấy-đau-chung-với-mày-nè của thằng Grey suốt cả tuần. Chuyện này là một bài học nhỏ nhưng quan trọng.
Cẩn thận hơn. Phải chú ý, nhưng đừng thu hút sự chú ý từ người khác. Phải giấu đi khi ta đang bị tổn thương.
Một cuộc sống được tạo nên từ hàng ngàn khoảnh khắc nhỏ như vậy… nỗi sợ hãi và nỗi đau ghi dấu rõ hơn mọi điều khác, dạy một người không chạm vào chỗ nào đó nóng bỏng tay hoặc đặt ngón cái vào sai cạnh lưỡi dao. Đó là những thứ thuộc về mặt vật chất rất lớn để rèn nên một tính cách.
Nếu không có những ký ức đó, một người sẽ trở thành gì?
Đối mặt với những câu hỏi mà tôi không thể trả lời, tâm trí tôi lại tiến gần đến sự vô cảm mà tôi đã cảm thấy sau khi tỉnh dậy trong phòng thí nghiệm sâu dưới... sau khi thằng Grey hủy lõi của tôi và bỏ tôi chết.
Sau khi Cecilia đã làm được điều không thể và chữa cho lõi tôi lành lại.
Dọng một tay xuống bàn làm việc, khiến các bộ phận chuẩn bị sẵn đang đặt trên bàn rung nảy lên.
Cái lõi rồng mà tôi đã trộm khỏi phòng thí nghiệm đang lăn ra khỏi vòng tròn vẽ bằng cổ tự hướng ra rìa mặt bàn. Cơn thịnh nộ mà tôi đang cảm thấy bị cuốn phăng đi bởi một cơn sợ hãi chợt nhói lên, và tôi gần như nhào hẳn qua mặt bàn để chụp lấy cái lõi, nâng niu nó bằng cả hai tay.
Bằng việc giữ lấy cái vỏ cứng và lạnh ấy, việc gạt đi giọng nói giận dữ trong tôi và thay vào đó là tập trung vào sự vô cảm sẽ dễ dàng hơn. Tôi sẽ cần sự kiểm soát đó. Bao nhiêu là những kí ức về tiền kiếp đang xâm lấn tâm trí tôi—thứ kí ức ở cả Trái đất và Dicathen với tư cách là thằng ngốc tên Elijah—đều là thứ rắc rối, và tôi cũng cảm thấy muốn bảo vệ chúng một cách quyết liệt.
Chúng là của tôi. Và bây giờ tôi đã có chúng trở lại, tôi sẽ không từ bỏ chúng nữa.
Điều đó có nghĩa là tôi đã giấu thằng Agrona một bí mật. Có điều gì đó cảm thấy rất kịch tính khi nghĩ về viễn cảnh đó. Tuy nhiên, hắn ta không phải là kẻ dễ bị dắt mũi. Tôi sẽ cần phải vờ như thiếu kiểm soát trong khi thực sự vẫn kiềm chế chặt chẽ bản thân và cảm xúc của mình. Tôi không thể cho hắn có bất kỳ lý do gì để xáo trộn tâm trí của tôi.
Dòng suy nghĩ này gây ra một cảm giác tội lỗi rất nhức nhối mà tôi không thể bỏ qua.
Là về Cecilia…
Mặc dù tôi rất háo hức muốn nói chuyện với em ấy sau khi hồi phục những ký ức cũ, nhưng tôi chỉ gặp em chóng vánh, và bản thân tôi cảm thấy không sẵn sàng bắt đầu một cuộc thảo luận mà tôi biết chúng tôi cần phải có. Vào ngay thời điểm đó, tâm trí em ấy đang bị che khuất bởi bất kỳ thứ ký ức giả nào, những ký ức mà tôi đã giúp gã Agrona phát triển. Mặc dù vậy, còn hơn thế nữa, tôi không tài nào biết được em ấy có thể đã bỏ lỡ bao nhiêu khoảnh khắc nhỏ trong kiếp trước.
Có bao nhiêu phần trong em đã khiến em trở thành người tôi yêu nhất trên cõi đời này vẫn còn nguyên vẹn? Tôi tự hỏi, cắn chặt vào lớp niêm mạc trong má cho đến khi tôi nếm thấy vị máu tanh như mùi kim loại.
Tôi nhắm nghiền mắt, nhăn hết cả mặt mũi và gồng các cơ trên người mình cứng lại, rồi thả lỏng cơ thể. Nếu bây giờ tôi chìm vào bóng tối sâu thẳm và lạnh lẽo của lối suy nghĩ kiểu này, tôi sẽ không bao giờ hoàn thành được công việc hiện tại của mình.
Thật cẩn thận, tôi đặt cái lõi trở lại bàn cơ khí thật nhẹ nhàng và kiểm tra một dãy các bộ phận xếp ra trên bàn và những trang thiết bị mà tôi đã xoay xở để lấy được một cách lặng lẽ. Mọi chuyện sẽ đơn giản hơn nhiều nếu tôi không cảm thấy cần thiết phải che giấu các hoạt động của mình khỏi thằng Agrona — hoặc che giấu khỏi bất cứ chuyện gì có thể xảy ra.
Vấn đề là tôi không thể tự mình làm mọi thứ. Chắc chắn rằng có những công xưởng bên trong pháo đài Taegrin Caelum để làm những thứ đó, nhưng mọi thứ tôi làm ở đó sẽ bị theo dõi. Và nếu tôi đặt hàng tất cả mọi vật liệu từ cùng một đám Imbuer (Kẻ Ếm Phép) và lũ thợ rèn, tôi đã mạo hiểm đưa ra quá nhiều phần trong thiết kế của mình. Và vì vậy tôi đã lặng lẽ thu thập mọi thứ từng phần một.
Làm thế sẽ để giữ mọi chuyện lặng lẽ hơn, nhưng lại không quá hiệu quả. Ngoài cái phụ kiện bị xước lúc nãy, tôi còn nhận được ba viên tinh thể mana bị xước, một mảnh gỗ charwood quá ngắn chỉ cỡ ba inch, và một đơn hàng thủy ngân tinh khiết vẫn bị nhiễm chu sa.
(Người dịch: “chu sa” tiếng Anh là “cinnabar”, có công thức hóa học là HgS. Nó là một loại khoáng sản tên Cinnabarit màu đỏ có sẵn trong tự nhiên, tìm thấy ở nơi có thủy ngân, tiếng Anh gọi là “quicksilver”)
Nhưng sự trỗi dậy của những ký ức cũ đã nhắc nhở tôi điểm mạnh của mình chính xác nằm ở đâu. Cho tới tận giờ đã quá lâu rồi, tôi toàn dựa vào sức mạnh thuần vốn có từ việc tái sinh vào một cơ thể mang dòng máu Vritra. Khả năng thông thạo ngay cả một trong những kĩ thuật dùng mana loại Decay (Phân Hủy) của tộc Vritra khiến tôi mạnh hơn hầu hết các pháp sư khác trên thế giới này, và hầu như tôi chỉ dựa vào điều đó trong suốt quá trình huấn luyện ở pháo đài Taegrin Caelum. Ngay cả mớ ấn (rune) làm mờ cả da thịt khắc dọc sống lưng tôi cũng chẳng đáng để so sánh với kĩ thuật mana này.
Nhưng với nhiều ký ức cũ của tôi trở lại dồn dập, tôi nhận ra rằng mình cũng còn một thứ khác, một thứ mà không một tên Alacrya nào khác có được.
Ở Trái đất, tôi từng là một phù thủy kỹ thuật, làm chủ các nguyên lý khoa học tiên tiến ở độ tuổi còn rất trẻ để đạt được những kỳ tích như trấn áp ki của Cecilia và làm cho em ấy sống gần như một cách bình thường. Sau cái chết của em… tôi quay cuồng, lao vào nghiên cứu, học mọi thứ về kỹ thuật, vật lý và các nghiên cứu liên quan đến ki mà tôi có thể tìm được.
Một lượng lớn kiến thức đáng ngạc nhiên này có thể trực tiếp chuyển đổi qua làm cho phép thuật hoạt động, đặc biệt là trong khía cạnh truyền mana và thiết kế đồ tạo tác. Năng lượng phải được cung cấp và truyền dẫn hiệu quả, các chỉ dẫn cho chúng phải được nhắm đúng chỗ, công suất phát ra phải cung cấp một kết quả cụ thể.
Sự hiệu quả, tôi tự lặp lại với chính mình. Đó là vấn đề thực sự. Nếu những gì tôi đang làm thực sự hoạt động, thì nó phải cho phép điều khiển mana hoàn toàn hiệu quả, không bị chậm trễ hoặc thất thoát.
Hồi ở lục địa Dicathen, tôi đã được huấn luyện để điều khiển mana trong khí quyển, không chỉ với những ấn trên lưng và những công thức phép thuật (spell formation) mà chúng cung cấp. Tôi đã đến một trong những trường dạy phép thuật tốt nhất trên lục địa và học dưới sự hướng dẫn của các giáo sư tài năng, học về các lý thuyết mana và một loại thao tác điều khiển mana mà chưa được nghiên cứu ở lục địa Alacrya.
(Người dịch: “chúng” ở đây nói cả công thức lẫn ấn)
Các pháp sư học để cách hiểu hình dạng của chú phép, tạo khuôn cho mana bằng tâm trí và ý định của họ thông qua việc tụng một chuỗi chú phép (chant) và dùng các thiết bị khác, như đũa phép chẳng hạn. Nó khó hơn và mất nhiều thời gian hơn, nhưng nó linh hoạt hơn nhiều. Các pháp sư có thể điều chỉnh sự tập trung cho ý định hay lời lẽ tụng chú phép để thay đổi đầu ra của một chú phép, hoặc thậm chí phát minh ra một chú phép hoàn toàn mới.
Còn các ấn trên lưng, mặt khác có thể thành thạo nhưng không bao giờ thay đổi. Chúng bị cố định về chú phép cũng như cố định về mặt lợi ích mà chúng cung cấp cho cả lõi và cơ thể của một pháp sư. Và nếu không có những ấn mới được phân phối rải rác và chầm chậm từ mấy thằng hầu của tên Agrona, thì không một pháp sư Alacrya nào có thể tiến bộ thực sự, kể cả lũ Scythe.
Nhưng chả có lý do gì tôi phải trông cậy vào tên Agrona để nhận được sức mạnh. Và sẽ không cần phải thế với tất cả kiến thức và kỹ năng mà tôi có để sử dụng.
Bây giờ tôi đã nhìn thấy mọi thứ rõ ràng hơn khi lõi bị hủy hoại và được tái tạo lại.
Cecilia đã làm nên một phép màu mà tôi vẫn không hiểu khi trả lại cho tôi món quà là phép thuật, nhưng điều đó không phải là không có cái giá của nó.
Lõi mana của tôi vẫn rất yếu.
Và điều đó có nghĩa là mọi người sẽ thấy tôi yếu đuối.
Nhưng thế giới đang thay đổi. Mọi thứ dần đang thay đổi quanh chúng tôi, ngày càng trở nên nguy hiểm hơn. Cecilia đã rất bận rộn kể từ khi tôi bình phục, và tôi biết chỉ có một lý do duy nhất cho việc đó.
Tên Agrona đang sửa soạn cho em ấy để chuẩn bị chiến tranh.
Nếu em nghĩ tôi quá yếu đuối, em sẽ bỏ tôi lại. Nỗi buồn sẽ hiện lên trong mắt em ấy khi làm như vậy, và em sẽ thực sự tin rằng làm thế là bảo vệ cho chính tôi, nhưng thực ra nó sẽ phá hủy chúng tôi. Em sẽ không bao giờ nhìn tôi như trước nữa, và Agrona sẽ từ từ loại bỏ tôi khỏi bức tranh tổng thể của gã. Chẳng bao lâu nữa, em sẽ chẳng là gì khác ngoài trở thành vũ khí cho hắn, và điều tệ nhất trong mọi điều là, ngoài việc biến thành vũ khí kia, em ấy thậm chí còn không biết rằng mình muốn trở thành người như thế nào nữa.
(Người dịch: “bức tranh” ở đây là bức tranh tổng thể thiết kế về một tương lai mà Agrona đã nói với Nico trong chap 362, đại khái là Agrona đã tính toán sau chiến tranh thắng lợi thì ai ở vị trí gì, quan trọng ra sao trong cái thế giới sau chiến tranh của Agrona)
Tôi đã phải ở bên cạnh em. Tôi phải bảo vệ em.
Và tôi sẽ làm bất cứ điều gì để đảm bảo rằng tôi đủ sức mạnh nhằm làm như vậy.
Với sự kiên định về mục đích của mình, tôi nhấc lên một nhánh gỗ Charwood màu đen vừa xoắn và dài - cái thứ mà tôi đã mạo hiểm đột kích vào kho chứa riêng của Agrona sau khi mẫu thử đầu tiên không đủ. Gỗ charwood đến từ quê nhà của gã Agrona ở lục địa Epheotus, cứng như thép và hoàn hảo để hoạt động với những loại phép thuật dùng cổ tự, nhưng cũng rất hiếm và đắt tiền. Cây trượng dài sáu feet có một đầu bị cùn còn đầu kia bị gãy nhìn to hơn, đó là chỗ gãy do bị bẻ ra từ một cái cây.
(Người dịch: cây gậy dài 6 feet = 1,8m)
Tôi lấy một dụng cụ nhìn giống như một chiếc thìa có miệng nông lai với con dao mổ và ấn nó vào thanh gỗ charwood dùng làm trượng này. Mana nhảy từ tay tôi sang tay cầm của cái dụng cụ, và những cổ tự ẩn dưới lớp bọc bằng da đã chuyển hóa mana thành nhiệt. Trong khoảnh khắc, cái thìa bằng kim loại được mạ đen phát ra ánh sáng màu cam.
Tôi ấn tay mạnh hơn vào thanh gỗ charwood thô này, và dụng cụ hằn sâu vào nó một chút nữa, tạo ra một làn khói mỏng có mùi vani. Tiếp thêm mana vào cơ bắp, tôi ấn dụng cụ vào thanh gỗ kéo thành một đường, nhưng vẫn chỉ cạo được một lớp cạo mỏng. Nghiến răng, tôi lặp lại quá trình này, rồi thêm lần nữa, mỗi lần như vậy lại cạo đi một lớp mỏng như tờ giấy.
Sau hai mươi phút, tôi đã cạo được một khúc lõm hơi nông trên cây trượng. Sau một giờ, tôi đã có một cái lỗ gồ ghề. Trong vòng hai giờ, tôi đã tạo ra được một rãnh viền rất chuẩn xác.
Tiếp đến, tôi lấy một trong những phụ kiện bằng kim loại kia, kiểm tra kỹ lưỡng để đảm bảo mẩu phụ kiện được chế tác hoàn hảo. Tôi ấn nó vào cái rãnh viền, sau đó lấy một cái búa nhỏ và gõ phụ kiện dính vào cái rãnh. Tiếng leng keng từ cái búa gõ nhấn chìm mọi tiếng động nhỏ nhẹ khác trong lâu đài, chẳng hạn như tiếng những người hầu di chuyển tới lui trong hành lang bên ngoài và át luôn tiếng những vụ nổ phép thuật từ một trong mấy phòng huấn luyện bên dưới.
Sau khi đặt chiếc búa xuống, tôi kiểm lại các thành quả: phụ kiện bạc đã khớp vào vết rãnh đục rất hoàn hảo, và đột nhiên cái que nhìn đơn giản giờ trông có gì đó khác lạ hơn bình thường. Không còn là một mẫu gỗ tự nhiên, mà thành một thứ gì đó được chế tạo thủ công và có mục đích.
Lấy một món khác từ bàn làm việc, tôi trượt một viên ngọc hình lục giác vào khớp của phụ kiện. Viên đá đỏ tươi nhìn như màu máu và tối sẫm lại trên nền gỗ đen cùng kim loại bạc. Nhưng tôi không gắn cứng luôn viên đá vào gậy. Thay vào đó, tôi lắc cho nó lỏng ra và đặt nó trở lại bàn, xoay qua mặt sau cây gậy và nhấc dụng cụ chạm khắc lên lần nữa.
“Nó trông có vẻ như một dự án đầy hấp dẫn.”
Tôi quá giật mình đến nỗi cào cái dụng cụ đang nóng rực qua các đốt ngón tay của mình. Nó nóng đến mức xuyên qua lớp rào chắn mana tôi phủ trên tay và cà vào lớp da thịt. Tôi buông lời chửi thề và ném thứ dụng cụ ngu ngốc lên bàn.
"Ồ xin lỗi!" Cecilia vội vàng đến bên cạnh tôi, cúi xuống và nắm lấy tay tôi.
Tôi lo lắng tự hỏi em đã đứng đó bao lâu, rồi nhận ra rằng em ấy hẳn đã bước vào trong khi tôi đang gõ búa.
Em ấy cắn môi khi kiểm tra vết thương, và lúc nhìn vào mắt tôi, mắt em đang sáng lên. “Anh ổn chứ?”
“Ổn,” tôi nói với giọng thô cứng, rồi đế thêm, “Anh ổn mà,” với giọng nhẹ nhàng hơn.
Mana chảy ra khỏi đầu ngón tay em ấy và phủ khắp vết thương, làm mát da thịt và xoa dịu vết bỏng rát. Mana của chính tôi cũng đã tuần hoàn khắp cơ thể để tăng cường tốc độ hồi phục.
“Thực sự thì anh vui khi có em ở đây,” tôi nói thêm sau một khoảng dừng khó xử khi cả hai chúng tôi chỉ nhìn chằm chằm vào vết đứt tay. “Anh cần nói chuyện với em về một số thứ.”
Em ấy mỉm cười với tôi và đảo mắt nhẹ nhàng về phía cửa. “Em e rằng chuyện đó phải để sau. Agrona đã cho gọi chúng ta. Gọi tất cả các Scythe, và cả em.”
Khi nghe tin này, tôi cảm thấy giọng em mang theo sự lưỡng lự. Rất hiếm khi tất cả các Scythe được tập hợp cùng lúc.
“Em có—”
“Không, nhưng hắn ta… nổi giận,” cô nói chậm rãi. “Em chưa bao giờ thấy gã ấy như thế này trước đây.”
Tôi muốn nói với em ấy rằng em đã không ở cạnh thằng đó lâu như vậy, không biết gì nhiều về hắn cả, chưa từng thấy hắn ở thời điểm hắn trở nên tệ nhất, nhưng tôi giữ những suy nghĩ này lại riêng mình. Dù tin này là về chuyện gì đi nữa thì cũng chẳng tốt lành gì khi thằng Agrona này để cho sự khó chịu của hắn bộc lộ ra ngoài mặt như thế.
Trước khi từ phòng mình theo Cecilia đi, tôi dành một chút thời gian để ngó qua bàn làm việc. Tôi lấy giẻ lau sạch máu của mình trên dụng cụ chạm khắc, nghịch ngợm vài món đồ để xếp chúng gọn vào các vòng tròn cổ tự tương ứng của chúng, rồi tôi nhận ra sẽ cực kỳ ngu ngốc nếu để nó ở đây khi tôi rời đi, tôi lén lút chộp lấy cái lõi và nhét nó vào túi lót bên trong áo khoác của mình.
“Dù sao thì anh đang làm gì thế?” Cecilia hỏi khi chúng tôi bước ra sảnh.
Tôi quay lưng lại và tạo khóa mana khóa cửa phòng. “Ồ, thực ra không có gì đâu, nó là…”
Em ấy nhếch mép cười với tôi và giọng tôi tắt dần. “Em có thể chỉ ra rằng đó là điều mà anh đang rất hào hứng. Tất nhiên là anh không cần phải nói với em, nhưng em mừng vì anh đã tìm được thứ để làm bản thân bận rộn.”
Thọc tay vào túi, tôi lấy ngón cái xoa cái lõi qua lớp vải lót, nhưng tôi không giải thích thêm chi tiết gì với em ấy.
Cecilia đi dọc theo hành lang rồi rẽ phải thay vì rẽ trái, khiến tôi bất ngờ.
“Chúng ta không đi đến cánh hành lang dẫn tới các phòng riêng của Agrona sao?” Tôi hỏi, vội theo sau em ấy.
“Không. Hắn đã gọi tất cả chúng ta đến khu vực Obsidian Vault (Phòng Hắc Diệu Thạch).”
Tôi không có gì để nói về chuyện này. Tôi thậm chí còn không chắc mình đang cảm thấy gì. Obsidian Vault là nơi các đối tượng có thứ hạng cao nhất của Agrona nhận được các ấn của chúng nó: lũ Wraith, bọn Scythe, đám retainer và thi thoảng thậm chí là những chiến binh thượng huyết tộc hay các ascender thu hút sự chú ý của tên Agrona.
(Người dịch: Vault trong tiếng Việt dịch thành “hầm” là mô tả không chính xác về từ này trong tiếng Anh. Vault là một không gian kín và thường lớn, được gia cố xung quanh bằng kim loại. Để dễ hình dung, hãy nhớ tới các bộ phim Hollywood có yếu tố cướp ngân hàng, tiền trong kho của ngân hàng được để trong một cái phòng kín bọc nhiều lớp thép to khổng lồ, bên ngoài là cửa xoay có mã khóa cao cấp, đó là một cái “vault” tiêu biểu. Có hình minh họa bên dưới)
Chỉ có một lý do duy nhất để hắn gọi chúng tôi đến Obsidian Vault.
Sẽ có một buổi lễ ban ấn. Suy cho cùng có lẽ đó không phải là tin xấu.
“Anh Nico, em muốn nói…” Giọng của Cecilia khiến tôi rút khỏi suy nghĩ mông lung của mình, và quay lại nhìn em ấy.
Tôi sẽ học cách hiểu và chấp nhận sự thay đổi về ngoại hình của em, cũng như tôi đã chấp nhận về sự thay đổi của mình. Giờ đây nhìn những nét tuyệt mỹ của tộc elf—cặp tai nhọn, đôi mắt hình quả hạnh và mái tóc màu xám bạc mà em ấy cứ dọa sẽ nhuộm—mặc dù chúng gói gọn với mọi ký ức của Elijah về cô gái tên Tessia Eralith, chúng lại đã gây ra nhiều mâu thuẫn hơn ngoại hình của tôi cả kiếp trước và kiếp này.
“—rằng em xin lỗi vì đã không ở quanh đây nhiều hơn trong mấy ngày vừa qua. Em đã muốn nói chuyện với anh—em chắc chắn rằng việc biết rồi hiểu lẫn chấp nhận với những gì đã xảy ra tại sự kiện Victoriad là rất khó khăn với anh—nhưng có rất nhiều điều thứ đang xảy ra ở cả hai lục địa Dicathen và Alacrya, và gã Agrona khiến em bận rộn một cách bất thường, vậy nên…”
Chuyện này chỉ xác nhận những gì tôi đã đoán. Tên Agrona đã sẵn sàng cởi xích cho Cecilia, tung em ấy vào cuộc chiến thực sự.
Đầu óc tôi nhanh quay lại vụ cây trượng, mà tôi để lại trong phòng, và tôi đột nhiên cảm thấy xót xa vì khoảng thời gian lãng phí này. Dù thằng Agrona sắp nói gì, điều đó không quan trọng bằng việc tôi đảm bảo rằng mình có đủ sức mạnh để bảo vệ Cecil.
Một bàn tay hạ nhẹ nhàng xuống vai tôi, và tôi nhận ra rằng thêm lần nữa mình lại trở nên mất tập trung.
"Nico, anh chắc là anh ổn chứ?" Cecilia hỏi, sự lo lắng vẽ thành những lằn nhăn trên khuôn mặt vốn hoàn mỹ của em ấy.
“Như em đã nói, chuyện đó đã rất… khó khăn. Anh xin lỗi vì đã bị phân tâm. Chỉ là có… rất nhiều thứ trong đầu anh.”
Em ấy cười một nụ cười nhân hậu và thấu hiểu nhất mà tôi có thể tưởng tượng nổi, và những ngón tay của em lướt qua má tôi. “Đừng xin lỗi em. Chúng ta là hai người duy nhất có thể thực sự hiểu những gì người kia đã trải qua.” Cảm xúc dâng trào trong lòng tôi, lấp đầy lồng ngực với một vị ngọt ấm áp, và rồi em ấy chèn thêm, “Chà, tất nhiên là ngoại trừ gã Agrona,” và cảm giác ấy trở nên khô héo và tan biến mất.
Tôi đi theo Cecilia xuống một chuỗi cầu thang hẹp, quanh co và vào một đường hầm được khoét gồ ghề. Tận cuối đường hầm, chúng tôi bước vào một căn buồng phòng được chạm khắc bằng đá đen nhẵn và gợn sóng, thứ đá này sáng lấp lánh ánh màu tím, như thể chính thứ đá này tự phát ra ánh sáng từ bên trong nó.
Agrona đã ở kia rồi.
Hắn đứng trước một cánh cửa đôi được chạm khắc hình ảnh một con basilisk đã biến hình với thân dài và ngoằn ngoèo như rắn cuộn lại thành hình chữ “V” và đôi cánh bằng da gập sát vào bên hông. Các ấn đang rơi từ móng vuốt của hắn xuống hàng loạt những khuôn mặt đang nghểnh lên. Tên Agrona đang ban phép thuật cho người dân. Nhìn bức chạm khắc này làm tôi luôn thấy thanh thản, bằng cách nào đó quang cảnh của nó vừa làm cảm thấy mạnh mẽ và bình yên cùng một lúc.
(Người dịch: Theo như cách dùng từ hạn định của tác giả là “his claw” thì có lẽ bức chạm khắc trên cửa đôi hai cánh này là hình dạng thật của Agrona khi biến đổi về lại dạng Basilisk)
Còn thằng Agrona thật, đang đứng trước bức chạm khắc và khoanh tay trước ngực với khuôn mặt đang phủ một thái độ thể hiện sự không hài lòng, hoàn toàn trái ngược với bức chạm khắc kia.
Hai ả Melzri và Viessa cũng đã ở đó luôn. Tôi sững sờ khi thấy cặp mắt hai ả đàn bà đầy quyền lực này lảng đi chỗ khác, thu mình lại như hai con lươn đầu phát sáng lén lút đang lấy mũ trùm phủ kín đầu để trông càng nhỏ bé và càng ít tỏ vẻ đáng sợ nhất có thể. Đó không phải là dáng vẻ mà tôi từng thấy ở hai ả Scythe trước đây.
(Nguyên văn: “two thief-lamp eels drawing their hoods over themselves” tác giả chắc tự chế cụm từ “two thief-lamp” vì google không có kết quả nào hết)
Đằng sau mỗi tên Scythe là một đứa retainer.
Tôi đã quá quen thuộc với nhỏ Mawar, “Bông hồng đen của vùng Etril.” Khoác lên mình chiếc áo choàng mỏng và đen tuyền, con nhỏ gần như biến mất trong bóng tối của gian phòng chờ này, tất nhiên là ngoại trừ mái tóc ngắn màu trắng của con này, sáng đến mức dường như tỏa sáng. Mặc dù chỉ lớn hơn tôi chút tuổi - hoặc, ít nhất là tuổi của cơ thể này - nhỏ này đã là retainer của Viessa trong gần bốn năm, và chúng tôi đã được huấn luyện cùng nhau rất nhiều.
Mặt khác, phù thủy độc dược Bivrae, tôi thường hay né gặp mụ ta. Nhìn ả như là một sinh vật ghê rợn, giống như ai đó cắm cả chùm que bị gẫy bằng bùn lầy vào thân và rồi treo mấy tấm giẻ rách cũ nát như da chuột lên người làm để làm quần áo. Lạc quan nhất mà nói thì mấy người anh em của mụ này cũng là những pháp sư nhớp nháp như vậy, với thằng anh Bilal không cầm chân nổi nhỏ Tessia Eralith đủ lâu để chờ tôi đến, và dĩ nhiên là chết trong khi làm thế.
Con Mawar có sự nhạy bén đủ tốt nên ánh nhìn của nó tập trung vào lưng ả Melzri, nhưng mụ Bivrae này nhìn chằm chằm vào Cecilia và tôi khi chúng tôi bước vào gian phòng chờ, và không buồn rời ánh nhìn của ả ta đi chỗ khác cho đến khi, vài giây rất dài sau đó, những bước chân nặng nề thông báo một sự xuất hiện khác.
Thằng Dragoth phải cúi xuống khi đi qua đoạn đường hầm nối để sừng hắn không cà lên trần hầm kêu kèn kẹt, và khi bước vào phòng chờ, thằng này đứng thẳng người lên và vươn vai một cách thản nhiên. Cười toe toét đầy bất cẩn với gã Agrona, thằng này bước vòng qua tôi và Cecilia để đứng ngay trước mặt chúng tôi, lưng hắn ta rộng đến mức che cả hai chúng tôi khỏi ánh nhìn của tên Agrona.
Theo sau thằng Dragoth là một pháp sư mà tôi chỉ biết nhờ tên và danh tiếng, chứ chưa thấy bao giờ: Echeron, retainer mới của thằng này. Gã đàn ông cao và đẹp như người mẫu. Những chiếc sừng mã não ngắn nhô ra như mấy cái gai từ mái tóc vàng được chải chuốt cẩn thận của hắn. Ánh nhìn từ đôi mắt xám bạc của hắn chạm mắt tôi, và những đường đẹp như chạm như khắc trên mặt tên retainer này co giật thành nét cau có trước khi quay lại nét mịn màng. Hắn đứng ngay bên cạnh tôi và ngay sau lưng thằng Dragoth.
Sự im lặng bao trùm cả gian phòng chờ, càng kéo dài càng khó chịu.
Ở bên cạnh, tôi có thể cảm nhận được sự thất vọng của Cecilia tỏa ra từ như một luồng khí (aura) bao phủ toàn thân khi đôi mắt màu ngọc lam của em nhìn như muốn đốt cháy vài lỗ trên lưng thằng Dragoth.
Bất cứ cảm giác đe dọa nào mà tôi biết em ấy từng cảm thấy khi có sự hiện diện của đám Scythe đều biến mất, nhưng tôi không chắc điều gì dẫn đến cảm xúc hiện tại của em. Có một cơn nôn nao đến phát bệnh trong lòng mình khi tôi liên kết nỗi sợ hãi đang ấp ủ của hai ả Melzri và Viessa với sự tức giận sắp bùng nổ của Cecilia.
Hai con ả Scythe này đã làm Agrona thất vọng vì chuyện gì đó.
Đó là thứ mà tôi đéo thèm quan tâm, nhưng chứng kiến việc Cecilia đang trở nên trung thành và gắn bó với Agrona như thế nào là một nỗi kinh hoàng dần dần ló dạng mà tôi không biết phải xử lý ra sao. Việc này gần giống như nhìn vào cái gương rồi thấy một phiên bản trẻ hơn nhiều của mình, nhớ lại cái hồi tôi lao mình vào Núi Nishan theo lệnh của thằng Agrona.
Một cái lạnh thấu xương đột nhiên bắt đầu rỉ ra khắp phòng, tạo thành những tinh thể sương đọng khắp tường và sàn nhà, thậm chí cả trên lớp vải áo khoác tôi mặc.
Rồi gã Agrona bắt đầu nói.
“Đầu tiên, các ngươi làm ta thất vọng ở vụ Victoriad, để thằng nhóc Arthur Leywin trốn thoát, rồi giờ bằng cách nào đó các ngươi đối phó sao để mất cả vùng Sehz-Clar vào tay một kẻ phản bội.”
Tâm trí tôi như bị kẹt ở mấy lời này, như thể một bánh của toa xe kéo hằn dấu xuống mặt đường.
Vùng Sehz-Clar, bị mất à? Cái gì chứ? Và rồi đầu tôi đã xử lý để hiểu sự vắng mặt của Seris và tên retainer của ả ta.
“Cuối cùng, hai trong các Scythe của ta rút lui trước một địch thủ bị trọng thương sắp hấp hối, bỏ lại Dicathen dưới quyền của một con retainer duy nhất, đứa mà giờ chúng ta cũng mất liên lạc.”
Đôi mắt đỏ tươi đầy giận dữ của thằng Agrona quét qua khắp gian phòng, bùng cháy như lửa địa ngục ở bất cứ nơi nào mà cặp mắt đó dừng lại.
“Xin tha lỗi cho chúng tôi, hỡi Chúa tể Tối cao, chúng tôi sợ rằng—”
Hơi thở trở nên dồn dập trong phổi ả Melzri khi tên Agrona dốc toàn bộ áp lực (force) từ cơn giận dữ của mình lên ả, và bất cứ lời cầu xin nào ả ta định thốt ra đều chết lặng trên môi ả.
(Người dịch: “Force” ở đây chính là King’s Force - Vương Lực)
“Các ngươi thật yếu đuối.” Hắn ngừng nói một chút, để cho lời tuyên bố này chìm sâu vào đầu từng người. “Kẻ thù đã phát triển mạnh hơn các ngươi. Tuy nhiên, cũng nhiều như mức các ngươi đã làm ta thất vọng, ta sẽ không trút toàn bộ lỗi lầm lên đầu các người.” Hắn buông tay xuống không khoanh nữa và tiến đến đứng trước mặt Melzri, vuốt ve cái sừng của ả. “Ta đã cho các ngươi sức mạnh mà các ngươi cần để diễn đúng vai mà ta đã chỉ định các người phải diễn. Bây giờ, dường như vai diễn của các ngươi sẽ phải thay đổi. Kẻ thù của chúng ta đã phát triển lên, vậy nên các ngươi cũng phải như thế.”
Ả Melzri ngay lập tức quỳ xuống. “Xin ngài, hỡi Chúa tể Tối cao. Hãy cho phép tôi là người đầu tiên bước vào Obsidian Vault.”
Không có chút cảm xúc nào làm hằn nét lên gương mặt bình thản của thằng Agrona khi hắn ta nhìn xuống sau đầu ả ta. Ngừng một quãng ngắn, hắn nói đơn giản, “Không.”
Rồi hắn quay lại và băng qua gian phòng chờ để đứng trước mặt Dragoth. Khi hắn ta làm thế, khoảng phân bố tỷ lệ (proportion) của căn phòng và mọi người trong đó dường như có sự thay đổi, do đó thằng Scythe này và gã Chúa tể Tối cao kia có chiều cao bằng nhau.
(Người dịch: cách ví von của tác giả trong tiếng Anh có vẻ khó hiểu cho người đọc, để dễ hiểu về tỷ lệ này, tức là nhìn theo chiều ngang khắp phòng, thì cả lũ chiều cao xêm xêm nhau, với Dragoth và Echeron cao kều đứng một bén, dãy hàng bên kia Agrona cao kều đứng với Melzri, Viessa, cho nên nhìn qua khá là cân về tỉ lệ chiều cao giữa hai nhóm đứng. Nhưng khi Agrona di chuyển qua đứng chỗ Dragoth thì độ phân bố chiều cao trong phòng lệch hẳn qua một nhóm)
Tôi chớp mắt vài lần, cố đẩy đi cái sự kích động kỳ lạ trong cảm giác.
Khi tôi đã làm đầu mình tỉnh táo, thằng Agrona lại lên tiếng. “Trong số bốn Scythe còn lại của ta, chỉ có một kẻ đủ dũng cảm để đối mặt với Arthur Leywin trong trận chiến. Đám còn lại các người đứng ngoài lề tại đại hội Victoriad, để mặc cho kẻ giỏi nhất và đứa kém nhất trong số các người gục xuống.”
(Người dịch: “the best” ở đây là Cadell, “the worst” ở đây là Nico, chắc các bạn cũng đã hiểu ý đồ của tác giả khi trận Victoriad cho Scythe mạnh nhất và yếu nhất cùng đánh với Grey. Khi đứa yếu nhất đến đứa mạnh nhất đều bị hạ bởi cùng một người, thì chứng tỏ lũ ở giữa cũng chỉ là đồ vô dụng)
Tất cả các khối cơ to đến độ phi thường của thằng Dragoth đều tỏ ra căng thẳng, rồi thằng ngu này loạng choạng đứng lết sang một bên, làm tôi nhìn rõ tên Agrona hơn.
Gã Agrona đang nhìn thẳng vào tôi. “Hôm nay, thứ tệ nhất trong các Scythe sẽ là kẻ đầu tiên vào Obsidian Vault.”
(Nguyên văn: “the least of the Scythes” sẽ có giải thích cuối chương)
Tôi cứng người bởi ngạc nhiên. Những lời chế nhạo và móc ngoáy kiểu vậy không có gì mới, nhưng trong trường hợp này, có vẻ như gã Agrona đang dành cho tôi một lời khen gián tiếp thay vì một sự xúc phạm thẳng mặt. Một bàn tay mềm mại đặt lên giữa bả vai tôi, và tôi quay lại nhìn Cecilia đang mỉm cười khích lệ.
Tôi bước tới.
Cánh cửa phòng được chạm khắc mở ra khi hai tên pháp sư mặc áo choàng đen đẩy nó ra từ bên trong. Tên Agrona ra hiệu về phía khe cửa đang mở để lũ pháp sư dựa lưng vào tường và chờ đợi.
Tôi lưỡng lự. Không phải lưỡng lự về chuyện tôi có khả năng từ chối bước vào dù tôi muốn từ chối, cơ mà thực ra tôi chẳng muốn từ chối đâu, mà là lưỡng lự về chuyện tôi không thể không tự hỏi tại sao thằng Agrona này lại thực sự đẩy tôi vào trước. Liệu có phải đó chỉ là một chiến thuật để kích thích đám Scythe kia hăng hái lên, hoặc có thể hắn chỉ muốn xem tác động của việc ban ấn cho tôi sau khi lõi tôi bị phá hủy và rồi được sửa chữa lại…
Kế hoạch lồng trong kế hoạch, tôi tự nhắc nhở mình.
(Nguyên văn: “Games within games”)
Di chuyển chậm rãi nhưng có mục đích, tôi bước vào Obsidian Vault và đi qua giữa hai tên pháp sư, chúng đóng hai cửa sau lưng tôi lại.
Obsidian Vault là một chỗ sáng chạng vạng kỳ lạ. Các bức tường, trần nhà, thậm chí cả cầu thang đi xuống, tất cả đều được tạo hình từ đá hắc diệu thạch màu đen và ánh tím phản chiếu.
Cầu thang bằng phẳng đi xuống một hồi lâu. Sau lưng tôi, những bước chân nhẹ nhàng của đám pháp sư theo sau, tiếng thì thầm của chúng như cái bóng theo sau bước chân vang lớn hơn của tôi. Sau khi đi chừng vài phút, chuỗi cầu thang kết thúc bằng một cổng vào kiểu mái vòm mở.
Căn phòng đằng sau mái vòm không lớn, nhưng cách mà ánh sáng lấp lánh trên hàng triệu nếp gấp và cạnh viền của trần nhà khiến nó trông giống như bầu trời đêm mở ra trên đầu tôi, tỏa sáng như bình minh nhưng có màu tím.
Giống như Chòm Sao Aurora ở lục địa Dicathen, tôi lơ đãng nghĩ, ký ức đầu tiên về những hiện tượng xa xôi đó như phủ một lớp hồi phục lên tâm trí đang dần được chữa lành của tôi.
Chính giữa căn phòng là nơi một bệ thờ (altar) chiếm chỗ, nó là một phiến gỗ charwood đặt lên mặt đá hắc diệu thạch đủ lớn để một người đàn ông có thể nằm xuống. Nó đang tỏa ra sức mạnh.
Tôi nghĩ là thật kỳ lạ. Tôi chưa bao giờ cảm nhận được sức mạnh đó trước đây, mặc dù tôi đã đến căn phòng này nhiều lần trong suốt cả đời.
Có gì đó đã thay đổi.
Suy nghĩ của tôi ngay lập tức chuyển sang những đồ đạc trong túi, thứ mà tôi không thể thuyết phục chính mình bỏ lại trong phòng mà không được bảo vệ. Tôi cũng nhớ lại, những ánh sáng màu tím mà tôi đã thấy khi chạm vào cái lõi, sâu xuống ngục tối, cách mà tôi thấy thứ ánh sáng này chiếu xuyên qua lõi như thể cái lõi là một loại thấu kính thì trông ra sao. Mặc dù tôi đã cố gắng tạo lại các hiện tượng này vài lần, nhưng tôi đều thất bại.
Gần như tự nhiên xảy ra không theo chủ ý của tôi, tay tôi tự luồn vào túi và nắm lấy cái lõi.
Không có chuyện gì xảy ra cả.
Buổi lễ ban ấn đột nhiên có vẻ tầm thường và chẳng quan trọng nữa. Tôi muốn tìm hiểu sâu hơn về cảm giác này, nhưng hai tên pháp sư—lũ quan chức hành lễ (officiant) của buổi ban ấn—cái bọn đã theo tôi xuống cầu thang đang đứng ở hai bên hông tôi, với tay lấy áo khoác, rồi đến viền áo sơ mi, cố gắng kéo quần áo ra khỏi người tôi.
Sự lo lắng và sợ hãi tràn ngập trong tôi khi nghĩ đến việc bọn chúng tìm thấy lõi của Sylvia. Tôi muốn đẩy cái lũ người này ra, nhưng biết rằng điều đó là vô ích. Dù có bất cứ chuyện gì xảy ra ở đây, tôi cũng phải tuân theo các nghi thức mà buổi lễ yêu cầu. Những tên quan hành lễ này sẽ không cho phép biến tấu gì ở đây hết, và tôi kinh hãi khi nghĩ thằng Agrona có thể sẽ làm gì tôi nếu tôi làm hại bọn chúng bằng bất kỳ cách nào. Lũ này không phải là đám nhà nghiên cứu tầm thường được giấu trong mấy ngục tối, bọn quan chức hành lễ này là chìa khóa để Agrona nắm giữ cả lục địa Alacrya, và tự tay hắn sẽ lột da bất kỳ gã đàn ông hay ả đàn bà nào làm trái ý bọn chúng, kể cả tôi.
Tôi làm theo yêu cầu của bọn chúng như cái máy mà không suy nghĩ gì. Một gã đàn ông mà tôi không để ý—do tôi bị phân tâm khi đứng cạnh bệ thờ—di chuyển ra khỏi bóng tối và đến vị trí phía đối diện bệ thờ. Lớp đá hắc diệu thạch xung quanh chỗ tôi đứng được khắc một vòng tròn gồm các cổ tự cách nhau hơi rộng, và tôi biết đặc điểm tương tự được bài trí trên sàn xung quanh chỗ đứng của tên quan chức thứ ba.
Hai tên kia hướng dẫn tôi đến tâm của vòng tròn cổ tự, nơi tôi quỳ xuống. Hai bàn tay tôi đặt trên bề mặt của bệ thờ bằng gỗ charwood, cẩn thận đặt lên trên hai biểu tượng phép thuật (sigil) nhìn phức tạp, mỗi cái tạo hình từ nhiều cổ tự nhỏ kết nối lại với nhau.
Đối diện với tôi, tên quan chức kia nhấc cây trượng của hắn ra khỏi chỗ đang gác tạm vào bệ thờ. Nó gõ lốc cốc xuống sàn ba lần, gây ầm ĩ trong sự tĩnh lặng ở đây. Hai tên còn lại đi vòng ra sau tôi, mỗi tên cầm một trượng ban nãy được đặt dựa vào hai bên của lối vào của cổng hình vòm.
Không có tiếng tụng chuỗi chú phép nào cả. Cũng chẳng có lời hướng dẫn nào hết. Không gì khác ngoài nguồn sức mạnh của bệ thờ tỏa ra trong yên lặng như thể sức nặng tinh tế của ngọn núi, và chuyển động nhẹ nhàng tự tin của ba tên pháp sư trùm đầu.
Từ phía sau, hai viên pha lê lạnh lẽo ấn vào hai bên xương sống tôi.
Đáp lại là sự ấm áp và luồng sức mạnh rung động gây căng thẳng thần kinh chạy từ hai bàn tay tôi đang đặt trên bệ thờ lên dọc theo cánh tay, dẫn lên vai và dựng cả tóc gáy. Cuối cùng, nó chạy dọc xuống sống lưng tôi để đến hai điểm lành lạnh của hai viên pha lê kia.
Trong một khắc, tôi đã sợ hãi. Tôi chưa bao giờ cảm thấy bất cứ điều gì như thế này trong lần ban ấn trước đây.
Chuyện quái gì đang xảy ra ở đây vậy?
Những rung động được tích tụ rồi lại tích tụ, phát triển từ cảm giác ngứa ngáy, đau nhức thành một cơn đau rõ rệt. Tôi chắc chắn có điều gì đó không ổn, muốn hét vào mặt mấy thằng quan chức kia, nhưng hàm bị khóa chặt, cơ bắp căng đến mức không thể phản ứng.
Ở đâu đó rất xa, hay nó chỉ là tiếng vang từ bộ não đang loạn lên vì đau của tôi, có một giọng nói lạo xạo thốt lên lời cầu nguyện với Vritra.
Tôi bắt đầu run rẩy và đổ mồ hôi. Tôi run từ đầu đến chân. Rồi thì giống như tay nắm chặt đang thả lỏng ra, cơn đau giảm dần.
Căn phòng như chao đảo, và tôi lẽ ra đã đổ sập xuống nếu không có mấy bàn tay mạnh mẽ của hai tên quan chức hành lễ. Chúng kéo tôi thẳng người lên và lúng túng tròng áo sơ mi qua đầu tôi, rồi kéo mạnh tay tôi vào áo khoác.
Tôi bị kéo đi giữa hai tên này, lôi lên cầu thang một cách vụng về, từng bước một. Sau lưng tôi, tôi nghe thấy tiếng lật mảnh giấy da và tiếng lầm bầm câm lặng của thằng quan chức hành lễ thứ ba.
Lõi tôi bắt đầu đau dữ dội.
Một tên giữ tôi trong khi tên còn lại vật vã đẩy hai cánh cửa đá khổng lồ mở ra. Khi một cánh cửa cuối cùng cũng bật ra khỏi khung cửa và xoay hướng ra ngoài một cách nặng nề, nước mắt tôi trào ra khi gặp ánh sáng, và tôi chỉ có thể chớp mắt trở lại khi chúng chảy thành hàng dọc theo má tôi vừa ướt vừa ấm.
Tôi được kéo ra khỏi dãy cầu thang đưa vào phòng chờ. Dù đôi mắt mờ mịt mệt mỏi, tôi vẫn liếc quanh nhìn những khuôn mặt ngạc nhiên đang há hốc nửa mồm ra. Khi ánh mắt lờ đờ của tôi nhìn tới Cecilia, nó dừng lại ở em ấy. Vẻ rạng rỡ từ mái tóc xinh đẹp và chiếc áo choàng chiến trận màu ngọc lam của em nổi bật so với mọi thứ còn lại như trăng giữa bầu trời không ánh sao. Sự lo lắng đã khắc sâu vào nét mặt, nhưng em ấy đang kìm chế nó lại.
“Chuyện gì xảy ra với hắn ta vậy?” Giọng của ả Melzri tỏ dấu hiệu lo lắng.
“Buổi lễ ban ấn có thất bại không?” Một giọng siêu trầm. Giọng của thằng Agrona. Giọng nói chậm chạp lười biếng, gần như đang nhàm chán. Chẳng có gì ngạc nhiên cả. Giống như hắn ta đã nghĩ trước rằng tôi sẽ thất bại…
Đột nhiên tôi bị lôi xoay người lại, và áo sơ mi tôi đang mặc bị kéo lên để không khí lạnh ùa tới ngấu vào da thịt đang nóng hổi của tôi.
Đang có lời nói phát ra. Nhiều lời nói hơn, nhưng càng lúc càng khó hiểu hơn.
Tôi chật vật quay đầu lại, nhìn ngang qua vai. Cecilia đưa tay che miệng, lông máy nhíu lại tỏ vẻ lo lắng. Một loạt cảm xúc hiện lên trên những khuôn mặt mờ ảo—tò mò, bối rối, khó chịu— rồi những nét mặt mờ ảo của Agrona hợp nhất lại khi hắn nghiêng người về phía trước để nhìn rõ hơn, biểu cảm của hắn thì không thể hiểu được.
(Người dịch: chỗ này là góc nhìn của Nico, và mọi thứ thuật lại theo mô tả cảm giác của Nico khi hắn đang mệt nên nhìn mọi thứ mờ mịt, chỉ khi Agrona đưa mặt tới gần lưng hắn để xem, thì hắn mới thấy rõ nét mặt là của Agrona)
Một ấn regalia, tên quan chức hành lễ đang nói, nhưng… có gì đó mới ư?
Một ấn gì đó không được ghi chép lại trong các pho sách cổ (old tome).
Rồi thì sự mệt mỏi, sự lưỡng lự cùng với cơn nhức sâu thăm thẳm trong lõi tôi đã phô bày ra quá đủ rồi, và bóng tối dần bao trùm lấy tôi. Tôi sẵn lòng đón nhận nó.
(Người dịch: đón nhận lấy bóng tối ở đây là mệt quá ngất xỉu nên chỉ thấy một màu tối thui, chứ không có nghĩa gì khác)
Tác giả: TurtleMe
Người dịch: Nightmoonlight
Danh sách chương