(Tên gốc của chương 400: Choices Already Made)


GÓC NHÌN CỦA ARTHUR LEYWIN


Các phép thuật bùng nổ trên bầu trời tạo ra những cơn mưa rào đủ các màu lam, lục, vàng rồi kéo thành các vệt lửa và có cả tràng vỗ tay lốp bốp hoan hô từ dưới đất. Làn gió nhẹ thổi qua mang theo âm thanh của hàng trăm giọng nói tưng bừng hớn hở cùng mùi thịt nướng và các loại bánh ngọt bỏ lò. Có một cô bé, cỡ không quá năm hay sáu tuổi, lướt nhanh qua chỗ chúng tôi với khuôn mặt đỏ bừng và nụ cười toe toét ngày càng kéo rộng đến mang tai qua mỗi bước chạy. Ngay phía sau con bé, người đàn ông chột mắt do một vết sẹo còn mới mà chẳng nghi ngờ gì là sản phẩm từ chiến tranh—đang cười lớn khi đuổi theo con bé.


Một nụ cười giương lên trên môi tôi khi cái anh mạo hiểm giả (adventurer) người Dicathen này nhấc bổng cô bé lên, làm bật ra tiếng kêu ré lên thích thú từ bé gái. Anh ta nhấc con bé đặt lên vai mình, còn cô nhóc tiếp tục cười khúc khích, càng lúc càng ngả người ra sau để ngắm những chùm pháo hoa tạo từ phép thuật đang nối tiếp nhau nổ tung từ phía trên bầu trời thành phố.


“Tôi đã không thấy mọi người vui vẻ như vậy kể từ trước cuộc tấn công đầu tiên vào Xyrus đến giờ,” Cô Helen Shard lên tiếng từ chỗ đang đứng dựa ở nóc tháp canh làm bằng đá cẩm thạch, nơi đặt cái cổng dịch chuyển duy nhất của thành phố Blackbend.


Cô Angela Rose đang ngồi trên bãi cỏ còn Regis nằm dài trong lòng cô ấy và dựa đầu vào ngực cô. “Nó kiểu như một bức màn tăm tối đã được vén lên, phải vậy không?” cô ấy nói, lơ đễnh gãi gãi dưới cằm Regis.


(Nguyên văn: “It’s sort of like a veil has been lifted, isn’t it?” Câu này được tác giả dùng với nhiều lớp nghĩa dài dòng.


Nghĩa 1: Khởi nguồn câu này từ Kinh Thánh, cụm ‘lifting the veil’ liên quan đến chúa Giê-xu quay về nhà thờ gì đó, nhưng đại khái với con người, thì nó được hiểu nghĩa là ‘khi chúng ta chết đi và bước lên thiên đàng, thì bức màn che phủ tâm mắt sẽ biến mất, làm ta thấy và hiểu được những điều sáng suốt rõ ràng hơn nhiều những gì mà dưới trần gian chưa từng thấy và ta sẽ không còn rào cản tội lỗi nào giữa ta và Chúa’. Đây là nghĩa gốc câu này.


Nghĩa 2: Từ nghĩa gốc 1 mới phái sinh ra nghĩa mà Angela dùng để nói câu này để đáp lại lời Helen phía trên: ‘người dân vui như vậy vì họ đã thoát khỏi bức màn tăm tối đến từ sự nô dịch và đô hộ của đám Alacrya và thấy được tương lai có nhiều thứ sáng sủa hơn, phải không?’


Nghĩa 3: Nghĩa này đến từ văn hóa cưới hỏi của phương tây, và cũng sinh ra từ vụ kinh thánh ở nghĩa 1 phía trên. Khi kết hôn, cô dâu bước vào nhà thờ đi giữa hai hàng ghế thì sẽ đeo mạng che mặt, tới khi bước lên chỗ chú rể và cha xứ đứng thì mới cởi mạng che ra để chú rể ngắm, và khi đó chú rể sẽ thốt lên một câu. Cũng chính là câu mà Regis dùng để đùa dưới đây)


“Nàng thật xinh đẹp và khôn ngoan,” Regis nói, liếm nhanh lên má cô ấy. “Tại sao đó giờ chúng ta chưa quen nhau nhỉ? Thật là tội lỗi.”


(Nguyên văn: “Beautiful and wise,” theo cái nghĩa số 3 ở trên, đây chính là câu chú rể nói để khen khi thấy cô dâu cởi mạng che mặt. Regis tranh thủ luôn câu Angela nói với Helen ở trên theo nghĩa số 2 để dùng nghĩa số 3 này khen và tán tỉnh Angela. Và trong tiếng Anh thì văn phong lấp lửng nên lúc này câu gốc bỏ luôn chủ ngữ)


Cô thưởng cho cậu ta một tràng cười ngọt như mía lùi. “Tôi không biết về con thú này của cậu, Arthur ơi. Cậu có chắc đây không phải tiếng lòng của mình phóng đại lên thông qua con thú triệu hồi chứ?” Cô ấy nhướng một bên mày tỏ vẻ quyến rũ với tôi.


“Nếu thật vậy, con sẽ không thể hiện bằng cái vẻ tục tĩu như thế,” tôi nói và bắn cho cậu bạn đồng hành của mình một cái lườm chằm chằm.


Cô Jasmine đứng quay lưng lại với chúng tôi và đã dành cả đêm để nghe ngóng trên đường phố - ánh nhìn nhạy bén của cô chắc hẳn đang theo dõi nhiều người di chuyển qua lại trên các con phố quanh chúng tôi. Đang lơ đễnh xoay con dao găm giữa các kẽ ngón tay, cô quay lại. “Đây không phải đặc ân hay ho gì mà con dành cho bọn cô chú đâu, con biết mà.”


(Người dịch: có clip minh họa cách Jasmine xoay con dao trên tay ở link cuối chương)


Tôi nhún vai. “Con biết. Nhưng con tin nhóm Twin Horns có thể duy trì sự điều hành thành phố mà không cố biến nó thành cái kiểu kiểm soát như Hội Mạo hiểm Giả (Adventurers Guild) đã làm trước đây. Thêm nữa, chuyện này sẽ không kéo dài lâu đâu, nếu mọi thứ diễn ra tốt đẹp, thì cô thậm chí còn không cần ở đây.”


Câu này khiến cả nhóm xôn xao, sự chú ý của mọi người nhanh chóng đổ dồn về tôi. Chú Durden hầu như không nói một lời nào kể từ khi đến Blackbend này, đột nhiên lên tiếng. “Ý con là gì?”


“Con từng mong rằng,” tôi bắt đầu nói, nhìn từ cô Jasmine đến cô Helen, “cô Jasmine sẽ đi cùng con đến Xyrus.”


Biểu cảm của cô Jasmine không cho thấy sự ngạc nhiên mà thay vào đó chuyển sang một kiểu gì đó trầm ngâm. Tuy nhiên, cô chẳng nói gì.


Mặt khác thì cô Helen, cau mày sâu sắc khi nảy người ra khỏi cây cột đang dựa vào. “Nhằm mục đích gì chứ? Với trận chiến vừa rồi, cô không thể tưởng tượng được việc dù ở đây có cả nhóm Twin Horns, hay thậm chí toàn bộ lực lượng đến từ thủ đô Vildorial thì sẽ tạo được khác biệt gì cho chuỗi kết quả ở thành phố Blackbend này. Thứ lỗi cho cô vì sắp nói điều này, nhưng Arthur à, với mấy kiểu trận đánh mà con đang gánh… con có chắc là muốn bất cứ ai đó mà con quan tâm ở cạnh mình không?”


Lẽ dĩ nhiên, cô Helen nói đúng. Tôi không muốn có ai mình quan tâm ở cạnh trong mấy trận chiến kiểu này, thực sự vậy. Nếu tôi có thể làm theo cách của mình, tôi đã nhốt tất cả những người mà tôi quan tâm vào một cái hố sâu thẳm ở đâu đó trong Khu Tàn Tích (Relictombs) để giữ cho họ được an toàn. Nhưng tôi cũng cần một ai đó ở bên cạnh mình có thể nói cho tôi biết khi nào tôi sai — để tôi có thể neo mình vào khi tiến lên các nấc thang tiếp theo. Có lẽ nếu tôi biết điều này hồi ở kiếp trước, tôi đã không cắm đầu vào một cuộc chiến tiêu tốn hàng triệu sinh mạng để trả thù cho việc cô Hiệu trưởng Wilbeck bị ám sát.


Nhưng tôi không nói ra mấy suy nghĩ này. “Con sẽ bảo vệ cho cô ấy an toàn,” tôi nói với cô Helen. Rồi với Jasmine, tôi nói thêm, “Dĩ nhiên là nếu cô muốn đi với con.”


Cô Jasmine nâng cằm lên, và đôi mắt đỏ phản chiếu hình một mảnh băng nổ tung từ pháo hoa xa xa trên đầu. “Dĩ nhiên rồi.”


Helen ngó qua ngó lại giữa hai người chúng tôi, mấy ngón tay bồn chồn gẩy sợi dây cung, rồi cô thở dài và gật đầu. “Được thôi, nhưng cô thề”—cô ấy quàng tay qua cổ tôi và cố kéo tôi vào tình trạng kẹp cổ khóa đầu—“nếu cô thấy đầu cậu ta thiếu mất cọng tóc nào thì—”


Chẳng tốn chút sức nào, tôi gạt chân cho cô ấy té, rồi đỡ người cô nâng lên bằng hai cánh tay khiến cô ấy ré lên vì kinh ngạc. “Cô biết tóc tự nhiên cũng rụng, phải không?”


(Người dịch: Tư thế hoàng tử bế công chúa ấy)


Tay cô đập bồm bộp vào vai tôi. “Bỏ cô mày xuống, thằng nhóc tức cười này!”


Tôi cười lớn thành tiếng rồi đặt cô ấy đứng lại xuống đất, giữ hai tay tôi bên hai bờ vai của cô và chúng tôi tiếp tục nhìn thẳng vào nhau. “Con hiểu cô đang lo lắng. Đây là chiến tranh, và không ai trong chúng ta thực sự an toàn, kể cả con, nhưng con hứa sẽ giữ an toàn cho cô ấy hết mức có thể.”


Cô Helen tỏ vẻ khúm núm, cố che nhưng không thể giấu nổi nụ cười do xấu hổ.


‘Chà, cậu cứ đi vui vẻ nhé, tôi nghĩ tôi sẽ chỉ ở lại đây với nàng Angela Rose và bộ ng…’


(Người dịch: tác giả để ‘her—’ lấp lửng nhưng ta có thể đoán là ‘her big boobs’ dễ dàng với cách nói của Regis)


Không đời nào, tôi đáp trả. Lại đây. Đến lúc đi rồi.


Trong khi Regis đang dứt điểm nốt việc tự biến mình thành thằng ngốc và lúng túng trước mặt cô Angela Rose, tôi bước vào tháp canh bằng đá và bắt đầu hiệu chỉnh cổng dịch chuyển đến thành phố bay Xyrus. Cô Jasmine lặng lẽ theo sau.


Khi cánh cổng được kích hoạt ngân vang lên âm thanh trong khung cổng, tôi bước lên đứng trước cổng, nhưng quay lại nhìn hai cô Helen, Angela Rose và chú Durden trước khi đi qua.


Regis trôi vào cơ thể tôi. Cô Angela Rose vẫy tay vui vẻ. Chú Durden gãi gãi vào gốc cánh tay bị cụt của mình, ánh nhìn hướng về nơi nào đó bên phải tôi.


“Chúc may mắn, Tướng quân Arthur,” cô Helen nói, các khớp ngón tay gõ vào cột đá chạm khắc. “Chúng tôi sẽ đợi tin tức về chiến thắng của cậu.”


Tôi gật đầu với cô Helen và nhìn qua cô Jasmine ngụ ý nhắc cô nói lời tạm biệt với mọi người trước khi đi qua.


Thế giới xung quanh tôi mờ đi khi dịch chuyển, và tôi có một khoảnh khắc ngắn ngủi lúc đang bị tách rời khỏi thời gian và hiện thực xung quanh để cân nhắc các bước tiến tiếp theo.


Tổng cộng tôi chỉ tốn vài giờ ở Blackbend. Thành công đòi hỏi một tốc độ chóng mặt từ phần việc tôi làm, và thành phố bay Xyrus thậm chí còn quan trọng hơn cả Blackbend.


Là thành phố thịnh vượng nhất và có thể tự phòng thủ được ở vùng Sapin, nó đã trở thành nơi cư trú cho nhiều tên thượng huyết tộc (highblood) đã bị thu hút đến lục địa Dicathen này—hoặc ít nhất là dành cho bọn không dồn nguồn lực của mình vào xây dựng thành trì ở Elenoir chỉ để chứng kiến ​​chúng bị Aldir phá hủy sạch.


Đây cũng là nhà của nhiều người Dicathen giàu có nhất, đặc biệt là các gia tộc quay mặt trở cờ như dòng họ Wykes.


Nỗi lo của tôi ở đây là sợ rằng ít phải đối mặt với một trận chiến mà lại kéo dài thời gian hơn để đào bới nhằm lôi những tên Alacrya ra khỏi thành phố như ngồi bắt ve từ thân chó. Và tôi càng dành nhiều thời gian ở một nơi, thì thành phố kế tiếp càng có thêm nhiều thời gian để đối phó với tôi. Tôi đã để cho tên Agrona quá nhiều thời gian để phản ứng và phản công lại các chiến thắng của tôi ở thủ đô Vildorial.


Thế giới trước mặt đang chao đảo thì ngưng lại khi tôi đến một cổng trong số hàng dãy các cổng dịch chuyển giống hệt nhau ở đây.


Một tổ đội lính Alacrya đang đứng canh gần đó. Còn lại cả con đường hoàn toàn vắng người.


Cô Jasmine xuất hiện sau lưng tôi, tay đã cầm sẵn con dao.


Một người lính gác trung niên với giọng đậm chất vùng Truacia bước tới. “Chào mừng đến với Thành phố Xyrus, Tướng Arthur và”—gã ấy nhìn cô Jasmine một cách sắc bén. Khi không ai trong chúng tôi trả lời hắn, hắn ta mím môi và kết thúc—“vị khách danh dự.”


Tôi cân nhắc một lúc trước khi trả lời. Thực tế là hắn biết tôi là ai và rõ ràng đã chuẩn bị cho sự xuất hiện của tôi, nhưng không tấn công tôi, có nghĩa là ai đó trong thành phố muốn nói chuyện.


“Tôi tên là Idir từ Huyết Tộc Plainsrunner,” gã nói tiếp, và lần này tôi bắt gặp sự run rẩy nhẹ trong giọng hắn. “Người của tôi và tôi ở đây nhằm hộ tống các ngài đến Tòa án (Courthouse) để gặp những người đứng đầu ở Xyrus. Nếu ngài muốn.”


Và nếu tôi không muốn thì sao? Tôi xém mở miệng hỏi, nhưng kiềm chế lại. “Và những kẻ đó là ai?” Tôi hỏi thay bằng câu này.


“Họ là các thành viên thứ bậc cao đến từ năm nhà thượng huyết tộc được trao quyền điều hành thành phố này gồm quý cô Augustine từ Thượng Huyết Tộc Ramseyer, ngài Leith từ Thượng Huyết Tộc Rynhorn, ngài Rhys từ Thượng Huyết Tộc Arkwright, ngài Walter từ Thượng Huyết Tộc Kaenig và ngài Adaenn từ Thượng Huyết Tộc Umburter.” Tôi hẳn đã thể hiện vài dấu hiệu là mình nhận ra mấy cái tên Ramseyer và Arkwright, bởi vì gã lính này nói thêm câu, “Những huyết tộc hùng mạnh trên cả hai lục địa, như ngài đã biết.”


“Và cuộc gặp mặt này liên quan tới chuyện gì đây?” Tôi hỏi.


Gã lính tên Idir cúi đầu khiêm tốn. “Tôi chỉ là người đưa tin. Tôi biết ngài vừa đến từ một trận chiến và đang mệt mỏi, nhưng tôi có thể đảm bảo với ngài, không một người Alacrya nào trong thành phố này muốn giương kiếm lên đấu với một người đã giết được ngài Scythe Cadell Vritra.”


Tôi chẳng nghi ngờ gì lời nói của hắn, nhưng thực sự thì chúng không khiến tôi thấy thoải mái. Bởi vì một người lính không muốn chiến đấu không có nghĩa là kẻ đó sẽ từ chối khi được ra lệnh phải đánh.


“Được rồi,” tôi nói thêm tý. “Dẫn đường đi, Idir.”


Mặc dù các con đường hầu như vắng người, nhưng nhiều khuôn mặt áp vào các cửa sổ của nhiều tòa nhà để hóng chuyện khi chúng tôi đi ngang qua. Trong số rất ít những người còn lại đang đứng trên đường phố, dường như đều là những người dân Dicathen thuộc tầng lớp lao động. Một số người thậm chí còn la ó để thu hút sự chú ý của tôi với vẻ hơi ngần ngại, nhưng đã bị mấy tên hộ tống cho chúng tôi cảnh báo lùa đi. Mãi cho đến khi một người đàn ông mặc chiếc áo tunic không màu ướt đẫm mồ hôi hét to lên “Lance Arthur!” thì tôi bước vào can thiệp.


Một ả đàn bà mập mạp mặc áo choàng được vũ trang định vung gậy về phía người đàn ông này, nhưng tôi đã chụp lấy nó. Mọi người sững cả người.


Cô Jasmine, vốn đã căng thẳng, rút nửa lưỡi dao găm ra khỏi bao trong nháy mắt, nhưng tôi ra hiệu cho cô lùi lại. “Tôi sẽ không để các người bắt nạt người Dicathen khi có mặt tôi ở đây,” tôi nói với những lời lẽ hướng về lũ lính Alacrya, rồi thả cây gậy của ả đàn bà kia ra.


Người đàn ông kia chỉ vừa bước qua độ tuổi trung niên với mái tóc dài chạm vai lưa thưa hai chỗ gần thái dương. Phải mất một lúc sau tôi mới nhận ra ông ấy. “Chú Jameson à?” Tôi hỏi, chắc chắn ông ấy là một trong những người làm việc tại Nhà đấu giá Helstea của chú Vincent.


(Người dịch: Có ảnh nhân vật phụ Jameson lúc trẻ từ manhwa để các bạn mường tượng bên dưới)


Chú ấy hào hứng gật đầu, tay vò siết vạt áo tunic trước ngực. Chú tiếp tục mở miệng nói, nhưng lần nào cũng dừng giữa chừng dưới ánh nhìn thù địch của bọn Alacrya.


“Cháu đề nghị chú quay lại điền trang, chú Jameson,” tôi nói dứt khoát nhưng tử tế. Tôi cũng chỉ hơi mở to mắt chút xíu, một kiểu giao tiếp phi ngôn ngữ mà tôi đang ngụ ý nhiều hơn những gì tôi vừa nói.


Chú ấy nhìn tôi hoảng hốt và ngây người ra, nhưng không cử động.


“Cô Jasmine, có lẽ cô nên đi cùng với chú ấy?” Tôi ngừng câu giữa chừng để nhấn mạnh, rồi nói thêm, “Để đảm bảo chú ấy về nhà an toàn được không?”


“Nhưng Arthur—”


“Đi mà cô. Để đảm bảo rằng mọi chuyện đều ổn, rồi hãy đến tìm con sau,” tôi nói, ngắt ngang lời cô ấy.


Cô Jasmine gật đầu, hiểu rõ chuyện. “Cô sẽ đến chỗ con sớm.”


Sau đó cô ấy nắm lấy cánh tay chú Jameson, nhẹ nhàng kéo chú ấy đi khỏi chỗ này. Người đàn ông này dường như rốt cuộc đã hiểu một số điều, và cúi đầu chào một cách vụng về khi chân nửa bước lùi, nửa bị lôi đi, trước khi quay hẳn lại và nhanh chóng theo sau cô Jasmine đi về hướng dinh thự của nhà Helstea.


Cảm thấy không thoải mái khi nghĩ đến việc phải tách khỏi cô Jasmine sau khi tôi đã nói rằng mình sẽ bảo vệ cô ấy, tôi liên hệ với Regis trong tâm trí, nhưng cậu ta đã bắt đầu di chuyển theo cô Jasmine rồi.


Như thể chính cái bóng của tôi đã trỗi dậy, cậu ta nhảy khỏi lưng tôi, đáp xuống một cách nặng nề, móng vuốt cào xuống mặt đất và khiến bọn lính giật mình. Chúng tôi không chia sẻ với nhau những suy nghĩ rõ ràng làm gì khi cậu ấy nhanh chóng chạy theo hai người họ, vì cả hai tôi đều hiểu cần phải làm những gì.


Chú Jameson la lên ngạc nhiên khi Regis nhảy xuống bên cạnh, nhưng cô Jasmine đã nhanh chóng trấn an người đàn ông này.


Sau khi nhìn họ bỏ đi, tôi lạnh lùng nhìn thẳng về phía tên Idir. Hắn ta hắng giọng, quay gót và bắt đầu bước đi tiếp.


Mặc dù tôi muốn có cô Jasmine và Regis ở bên cạnh, nhưng tôi cần nhắn cho người nhà Helstea biết là tôi đang ở trong thành phố. Theo lời cô Jasmine, họ đã giúp những người dân trong tầm ngắm của tụi Alacrya rời khỏi thành phố kể từ khi cuộc chiếm đóng của bọn Alacrya bắt đầu. Điều đó nghĩa là họ có các mối liên hệ, có mạng lưới, những người nên biết rằng nhiều thứ sắp thay đổi.


Đi bộ từ chỗ mấy cánh cổng dịch chuyển đến Tòa Án cũng không lâu. Tôi hơi chút ngạc nhiên khi thấy quảng trường rải sỏi phía trước tòa nhà hoàn toàn trống rỗng. Nó là một cái sân được trang trí công phu gồm đầy các khu vườn với những cây ăn quả được chăm sóc tốt, và một số bức tượng của các pháp sư nổi tiếng trong suốt lịch sử của thành phố Xyrus. Tôi đã hóng ít nhất là một màn phô trương lực lượng. Cỡ trăm nhóm chiến đấu sẽ lấp đầy không gian xinh xắn, và tạo cho nó một không khí hợp chất quân sự.


“Binh lính của chúng tôi trong thành phố hầu hết đã rút lại phía sau,” gã Idir nói có vẻ nghiêm trang nhằm trả lời câu mà tôi còn chưa hỏi. “Quý cô Augustine không muốn tạo ấn tượng nhầm với ngài.”


Chúng tôi nhanh chóng băng qua sân, nhưng đám lính đã dừng lại ở chân các bậc thang làm bằng đá cẩm thạch. Phía trước mặt và trên đầu chúng tôi, những đường nét trắng và xám của khu nhà khổng lồ được xem là Tòa Án dường như chắn trọn tầm nhìn tới tận đường chân trời của thành phố.


Năm tên Alacrya ăn mặc rất sang trọng và đẹp đẽ bước ra thành một hàng trang nghiêm từ dưới cổng vòm cao chót vót dẫn lối vào Tòa Án đằng sau lưng, mỗi tên đều toát ra uy quyền của lũ thượng huyết tộc và phủ thần thái lên từng bước đi.


Một người phụ nữ trẻ đến độ đáng ngạc nhiên với làn da nâu hơi ửng đỏ và những lọn tóc đen cột chặt bước lên trước những tên khác độ nửa bước. “Ngài ascender Grey. Hay… còn gọi là Arthur Leywin, phải không ạ?” Ả ta chớp chớp cặp lông mi dày với tôi nhằm tỏ vẻ đầy ngây thơ. “Rất vui được gặp ngài. Ông tôi đã nhận thấy ngài là một vị giáo sư có nhiều vấn đề phức tạp lẫn thú vị. Tôi rất hứng thú để tìm hiểu rõ hơn tại sao lại thế.”


Khi cô ả nói, lời lẽ đanh lại và phát âm đầy sắc bén, sự tương đồng với những người trong gia tộc bọn chúng trở nên rõ ràng. “Vậy thì cô là Augustine của Thượng Huyết Tộc Ramseyer ư? Chị ruột của Valen à?”


“Là chị họ,” ả nói với một cái nhún vai nhẹ nhất có thể bằng đôi vai gầy đét của mình. “Mặc dù chúng tôi được nuôi dạy cùng nhau còn thân thiết hơn cả chị em ruột. Tôi đã tốt nghiệp Học viện Trung tâm — một thực tế mà giờ tôi xem là một sự xấu hổ lớn, bởi vì thời gian mà tôi tốt nghiệp diễn ra trước khi nhiệm kỳ giáo sư ngắn ngủi của ngài bắt đầu ở đấy. Nhìn thấy màn trình diễn của ngài tại đại hội Victoriad, tôi chắc chắn rằng lớp học của ngài là thú vị nhất rồi.”


“Cô có vẻ biết đôi chút về tôi, Quý cô Ramseyer à, vậy tôi chắc rằng cô cũng biết lý do tại sao tôi ở đây,” tôi nói, mắt quét thẳng qua năm tên thượng huyết tộc.


Cô ả giơ một bàn tay mỏng manh lên. “Ôi trời, ngài định thảo luận chuyện công việc ở đây khi đứng cúi gằm xuống thế này, như thể chúng ta là đám con buôn đang tán tụng lẫn nhau đầy vẻ mờ ám à?” Đôi lông mày mỏng của cô ta nhướng lên, và có một tia sáng lóe lên trong đôi mắt đen nhánh của ả. “Chúng ta hãy cùng lui tới những nơi tiện nghi hơn, để ta có thể thảo luận về mục đích của ngài ở Xyrus này như những người văn minh lịch sự.”


Bốn tên thượng huyết tộc còn lại dẫn đường, trong khi con ả Augustine đứng sang một bên và ra hiệu cho tôi đi theo. Tôi dành một chút thời gian để đảo mắt quanh sân vườn và những chỗ tôi có thể nhìn thấy về tòa nhà gọi là Tòa Án này. Đội vệ binh do tên Idir chỉ huy đang đợi ở chân những bậc thang rộng lớn, nhưng tôi không thấy có gì khác, không ai khác ở đây cả.


Khi tôi đi ngang qua ả ta, con Augustine này với ra và luồn cánh tay của ả qua cánh tay tôi. Cô ả thấp hơn tôi một cái đầu, và cánh tay mảnh khảnh trông như mấy cái que sắp gãy cặp sát cánh tay tôi, nhưng có một vẻ duyên dáng thanh thoát và nét tự tin dai dẳng trong cách di chuyển của ả ta để lộ ra rằng ả chẳng sợ hãi gì tôi cả.


Khi chúng tôi khoác tay nhau đi qua các đại sảnh, tôi thấy suy tư trong đầu mình đang nghĩ về Học viện Trung tâm. Tôi không có nhiều thời gian để xem xét sự hỗn loạn mà tôi đã để lại sau khi quẩy tung lên. Mấy đứa nhóc đó, những đứa mà tôi tác động lên chúng nhiều nhất—Valen, Enola, Seth, Mayla…


Tôi tự hỏi. Có phải tôi đã gây ra hại nhiều hơn lợi, bằng cách khiến chúng tin tưởng vào tôi chỉ để sau đó tôi phá vỡ niềm tin đó và biến mất?
Ai mà biết được tên Agrona và lũ tay sai của hắn đã lan truyền kiểu nhồi sọ gì sau vụ Victoriad.


“Mấy đứa nhóc trong lớp tôi,” tôi bắt đầu, rồi do dự, không chắc chính xác là mình sắp muốn hỏi điều gì—hoặc liệu tôi thậm chí có tư cách để hỏi với tình huống hiện giờ của chúng tôi hay không.


“Chẳng có sự khiển trách gì với bọn họ cả, và họ được tạo cơ hội và nguồn lực dồi dào để hồi phục sau cú sốc đó,” Con Augustine xác nhận. “Ông tôi có thể là một người cứng rắn, nhưng ông luôn tận tâm với học viện của mình và các học sinh ở đấy.”


Ít nhất thì điều đó làm tôi thấy nhẹ nhõm. Tôi biết lão Alaric sẽ không có được sự bảo vệ như vậy, nhưng tôi tin tưởng ông già say rượu ấy có thể tự chăm sóc bản thân.


Khi nhận ra rằng tôi đang để cảm xúc ủy mị quá độ kéo chùng sự tập trung của mình xuống, tôi bắt đầu dựng lại trong lòng sự vô cảm lạnh lẽo tương tự thứ đã từng giúp tôi tồn tại ở lục địa Alacrya.


Con Augustine hướng dẫn tôi đi qua vài đoạn hành lang ngắn trước khi chúng tôi đến một phòng khách (lounge) lớn. Giống như những chỗ còn lại trong Tòa Án, sàn nhà bằng đá hoa cương bóng loáng, trong khi các bức tường đều chạm khắc bằng đá cẩm thạch trắng sáng rực rỡ. Các ô cửa sổ hình vòm phủ ánh nắng đầy phòng chờ này, khiến nơi này đã sáng càng trở nên chói hơn. Hàng chục cái ghế cả loại trường kỷ lẫn dựa lưng cao cấp được xếp cẩn thận thành dãy khắp căn phòng, xen kẽ bởi hàng trăm loại cây xanh khác nhau đặt trong các chậu. Một quầy bar cực lớn bằng đá cẩm thạch chiếm trọn một mảng tường, đằng sau là tầng tầng lớp lớp các kệ đựng đầy ắp các chai rượu.


Tại trung tâm của phòng khách, tôi để ý thấy có một cái bàn vuông đã được dịch qua và một số ghế được sắp lại để nhường chỗ cho một cái bàn tròn nhỏ với mặt bàn kẻ sẵn các ô cờ của trò Sovereigns Quarrel (Cuộc tranh đấu của các vị chúa tể). Hai cái ghế tựa lưng cao có bọc đệm nhung được kê đối diện nhau ở hai đầu bàn.


Bốn tên thượng huyết tộc im lặng đứng sang một bên, và con nhỏ Augustine dẫn tôi đến cái bàn này. Tôi kéo một chiếc ghế ra và mời cô ả ngồi vào. Ả ta che giấu sự ngạc nhiên của mình rất tốt, cười mỉm và nghiêng đầu cảm ơn khi ngồi vào chỗ. Tôi đẩy nhẹ chiếc ghế vào cho ả ngồi, rồi tự mình ngồi xuống.


“Ngài quen với trò này chứ?” cô ả hỏi, ngón trỏ lần theo một con cờ striker được chạm khắc tỉ mỉ.


“Tôi đã từng chơi,” tôi trả lời khi kiểm tra bàn cờ. Các con cờ được chạm khắc tinh xảo, mỗi con caster, shield, và striker đều trông độc nhất. Các con cờ bên ả ta được chế tác bằng đá đỏ như máu, trong khi mấy con bên tôi bằng đá cẩm thạch pha hai màu xám và đen. “Tuy nhiên, tôi không ở đây để chơi, Augustine. Cô biết rõ điều đó.”


(Nguyên văn: “I’m not here for games,” rõ ràng chỗ này chữ ‘games’ có hai nghĩa. Một ý thuần là ‘chơi cờ’, nghĩa còn lại ám chỉ việc ‘chơi trò âm mưu gì đó do con Augustine đang bày ra’)


Nụ cười của ả nở rộng hơn, nhưng cô ả đang tập trung vào bàn cờ và không nhìn vào mắt tôi. “Thành phố Blackbend rơi vào tay ngài trong—bao lâu ấy nhỉ?—hai mươi phút ư?” Trong khi mắt nhìn chằm chằm vào các con cờ, ngón tay ả lại mơn trớn viền môi. “Rõ ràng sức mạnh từ vũ khí là đối trọng kém cỏi với sức mạnh của ngài, Arthur— à tôi có thể gọi ngài là anh Arthur được không?” Ả ta hỏi và tự ngắt lời khi nhìn tôi để xác nhận.


Tôi gật đầu, và ả ta nói tiếp. “Nhưng Xyrus lại là một con quái thú khác. Hàng trăm người Alacrya đã biến thành phố này thành nhà của họ, và cứ năm binh sĩ canh gác cho một thường dân. Nhiều người Dicathen đã tuyên thệ trung thành với Chúa tể Tối cao. Ngài có định đi từ con phố này đến con phố kia, từ căn nhà này đến căn nhà kia, đạp tung từng cánh cửa và lôi đi hết các gia đình—bao gồm cả con cái lẫn người hầu của họ— một cách bừa bãi không?”


Nhấc một con striker lên, ả ta di chuyển nó theo một đường thẳng thọc sâu vào cuối sân nhà của tôi. Một nước cờ rất hung hăng.


(Nguyên văn: “An aggressive move.” Từ ‘aggressive’ có ba nghĩa: ‘hung hăng’, ‘xâm lược’ và ‘tấn công’. Và dựa trên câu con này nói lẫn cách nó đánh cờ, cả ba nghĩa trên đều rất chính xác trong tình huống này, hay nói cách khác, một câu nhỏ bao hàm ý cả ba nghĩa. ‘Hung hăng’ thể hiện tính cách con ả, ‘xâm lược’ thể hiện bản chất quân Alacrya, còn ‘tấn công’ thể hiện ra ngay ở nước cờ lẫn thái độ ứng xử của con ả lúc này)


“Thường thì đám binh lính sẽ đầu hàng sau khi tôi hủy diệt hết bọn lãnh đạo của chúng,” tôi nói với giọng đều đều, điều động một con caster lên phản công lại con striker của ả.


Con ả cắn môi, rồi di chuyển một trong mấy con caster của ả lên hỗ trợ cho con striker. “Thật phách lối, anh Arthur à. Tôi đã nghĩ rằng anh muốn thảo luận cơ chứ. Anh mong đợi tôi sẽ đối xử tốt với anh khi anh kề dao vào cổ tôi ư?”


Tôi nhún vai, tái bố trí lại con shield một cách bất cẩn. “Tôi không đến đây để đàm phán. Tôi đến để chiếm lại thành phố. Không đổ máu thì tốt hơn, nhưng tôi đã chuẩn bị để làm những gì cần phải làm, giống như ở Blackbend.”


“Vậy sau đó thì sao?” Ngón tay ả gõ lên mặt bàn bằng gỗ cứng. “Anh muốn chúng tôi”—ả đã ra hiệu cho mấy tên còn lại—“dẫn người của mình đi và về nhà? Chỉ đơn giản vậy thôi ư?”


“Rõ là thế. Và cô có thể dắt bất cứ ai quỳ gối cúi đầu với thằng Agrona theo cùng bọn cô.”


Con ả nghiêng người ra khỏi bàn cờ đang chơi khi quan sát tôi vô cùng cẩn thận. “Trước khi chúng ta tiến xa hơn, tôi có lời thú nhận này. Xin hãy kiềm chế hành động và lắng nghe.” Con ả Augustine và một tên trong cả lũ đang đứng kia cùng nhìn nhau, tên đó gật đầu với ả một cách dứt khoát. “Mọi binh lính Alacrya dưới quyền điều động của chúng tôi đã tỏa ra khắp thành phố. Mệnh lệnh giao cho họ rất đơn giản: nếu có bất kỳ tổn hại nào đến với tôi hoặc các đồng hương của tôi đằng kia, họ sẽ bắt đầu tàn sát người dân ở thành phố Xyrus này.” Con ả lại giơ tay lên, nét mặt dịu đi. “Đừng nghĩ xấu cho tôi, tôi không phải là một con quái vật. Tôi được giao phụ trách việc mở rộng huyết thống của chúng tôi vào lục địa của các anh bởi vì tôi háo hức được làm việc cùng những người dân ở lục địa Dicathen, để học hỏi từ họ và hướng dẫn họ phục vụ cho ngài Agrona.


(Nguyên văn: “Every Alacryan soldier at our disposal has already been disbursed throughout the city.” Câu này tác giả dùng từ khá kì quặc, nên mình không hiểu toàn bộ ý của tác giả. Cụ thể từ ‘disburse’ có nghĩa là ‘giải ngân’, và từ này dùng cho ‘tiền’ hoặc ‘quỹ’ nào đó dính đến tiền chứ không dùng cho người. Theo cách hiểu của mình thì ý của con Augustine khi dùng từ ‘disburse’ trong câu đó nghĩa là: “Mọi binh lính Alacrya dưới quyền điều động của ả đã làm cùng lúc ba việc sau: thứ nhất là tỏa ra khắp thành phố, thứ hai là được ả phân phát cho tiền bạc rồi, thứ ba là giải ngũ ra khỏi quân đội, tức là kiểu bỏ quân phục ra, mặc thường phục vào để len lỏi trà trộn vào người dân Dicathen”)


“Nhưng,” ả tiếp tục, và trong giây lát, sự bình tĩnh của ả như vỡ tan ra, và tôi thấy nỗi sợ hãi thực sự lóe lên trên nét mặt hoàn mỹ của cô ả, “đúng như anh đã nói, tôi sẽ làm những gì cần phải làm. Bởi vì, bằng danh dự với huyết tộc của tôi, tôi không thể chỉ đơn giản giao thành phố này cho anh.”


Tôi nhìn xuống bàn cờ, không lộ phản ứng của mình ra ngoài trước những lời đe dọa của ả. Thay vào đó, tôi chỉ nói, "Tôi cho rằng vẫn đang là lượt đi của cô đấy, Augustine à."


Ả cắn môi, lướt con striker qua khoảng trống mới hình thành trong hàng ngũ dàn quân của tôi. “Tôi biết rằng anh chẳng lo sợ bản thân bị làm sao cả,” Con Augustine tiếp tục, giọng to hơn và tự tin hơn, “nhưng anh không nhẫn tâm với mạng sống của người khác. Ngay cả khi ở Alacrya, lúc nào cũng bị bao vây bởi kẻ thù, anh vẫn đã cố chịu đựng để đảm bảo những học sinh mà anh quan tâm được chăm sóc tốt, cụ thể là những học sinh như Seth từ Thượng Huyết Tộc Milview và Mayla từ Huyết Tộc Fairweather.”


“Hãy tự đầu hàng đi và người dân thành phố này sẽ được tha,” một trong mấy tên thượng huyết tộc còn lại đế thêm, giọng trầm êm dịu của hắn rỉ ra khỏi mồm với vẻ kiêu ngạo đầy chất vênh váo.


Giả vờ ngáp đơ cả mồm, tôi rút con caster đang đứng phía trên qua chặn con striker của ả đang tính bắt con sentry của tôi. “Tôi có cảm giác cô không dồn hết sự chú tâm vào ván cờ.”


Ả ta nghiến chặt hàm khi liếc qua mấy tên thượng huyết tộc khác với vẻ lưỡng lự. Tên Walter từ Thượng Huyết Tộc Kaenig gật đầu một cái, và ả hơi lùi ra khỏi bàn.


Một loạt điều cùng xảy ra tắp lự trong một thời điểm: bầu không khí khắp căn phòng gợn sóng lên rất dữ tợn, và đột nhiên phòng khách đầy ắp bọn hiệp sĩ phủ kín giáp và được vũ trang hạng nặng; vài khiên phép bằng mana có màu trong mờ mờ xếp chồng lên nhau hiện ra ngăn giữa tôi và con Augustine; và ở đâu đằng xa, bắt đầu có những tiếng thổi kèn.


Tôi nghe thấy tiếng gió rít vun vút từ một cây thương (polearm) đang vung lên, tôi với tay lên và bắt lấy trục thương, rồi chỉ vặn cổ tay khiến cây thương bằng gỗ vỡ vụn. Kẻ tấn công của tôi mang gia huy (symbol) của dòng họ Wykes trên lớp giáp che ngực (breastplate) của hắn. Tôi nhận ra nhiều gia huy của một vài dòng họ quý tộc giữa đám đông binh lính: Wykes, Clarell, Ravenpoor, Dreyl, và ngạc nhiên nhất trong cả đám đó là Flamesworth.


(Người dịch: trong tiếng Anh, tất cả những cây gậy có gắn vũ khí bằng sắt ở một đầu cán đều có tên gọi chung chung là polearm (cây thương), còn xét từng loại vũ khí gắn vào đầu thương sẽ có tên riêng cho từng món)


Vào lúc đó, con ả Augustine đá chiếc ghế đang ngồi sang một bên và lui vào sau vòng vây của đám binh lính Dicathen. Những tên thượng huyết tộc khác đang bận rộn phi như bay ra khỏi phòng trông như mấy con chuột đang cong đuôi chạy khỏi cái lồng đang cháy.


Tôi vẫn ngồi yên tại chỗ. Không tên nào khác dám tấn công ngay lập tức, vậy nên tôi quay lại nghiền ngẫm tiếp bàn cờ đang chơi dở.


“Mấy người này, những người Dicathen bản xứ, tự nguyện chiến đấu để khiến anh không biến mọi thứ trở lại như trước!” Con ả Augustine hét to để át tiếng ồn ào vang lên đột ngột từ cả trăm gã đàn ông mặc giáp sắt va quẹt nhau kêu lẻng kẻng. “Điều đó không khiến anh lưỡng lự suy nghĩ một khắc nào sao? Hay là anh cứng đầu cố chấp đến mức anh sẽ sát hại cả người dân của mình để đảm bảo nhào nặn thế giới thành đúng kiểu như anh nghĩ.”


Có một sự hoang dã trong đôi mắt đen nhánh của người phụ nữ trẻ khiến tôi liên tưởng đến một con beo cái bị dồn vào chân tường.


(Nguyên văn: ‘shadow panther’ là tên một loài báo màu đen ở New Zealand, ‘con báo đen’ hay còn gọi là ‘con beo’)


Tôi mất một giây để nhìn từ gương mặt này sang gương mặt khác, nhìn thấy ở bọn chúng nét chắc chắn cam chịu làm tôi thấy ngạc nhiên. Chỉ nhìn thấy tôi thôi đã đủ gợi lên nỗi kinh hoàng tột độ cho những người Alacrya, nhưng những tên hiệp sĩ của lũ quý tộc Xyrus này dường như rất tự tin. Giống như mấy con tốt nhỏ bé được chạm khắc tinh xảo trên bàn cờ này, bọn chúng chỉ đơn giản đi đến nơi chúng được bảo, không biết phân nhánh lựa chọn giữa các hành động hay chính mạng sống của bọn chúng.


“Các người nghĩ rằng các người đã dẫn dắt và thao túng được ta rất tốt,” tôi nói, ấn ngón trỏ xuống đầu con cờ striker của ả ta giờ đang nằm sau nguyên hàng mấy con shield của tôi, đứng gần con sentry của tôi đến độ nguy hiểm. “Các người đã tách riêng một điểm yếu của ta ra và tìm cách khai thác nó. Đẩy ta vào thế không thể thực hiện bất cứ hành động nào khác.” Nhấc con sentry lên, tôi  di chuyển nó đến đứng kế con striker đối địch. “Nhưng ta sẽ không để bị tước đoạt bất cứ cái gì đâu, Augustine à.”


(Nguyên văn: “But I don’t forfeit, Augustine.” Một lần nữa, câu này mang cả ba nghĩa. Bản thân từ ‘forfeit’ rất khó dịch sát ra tiếng Việt, với cả nghĩa thông thường lẫn nghĩa thể thao. Trong thuật ngữ cờ vua thì ‘forfeit’ có nghĩa là ‘bị tước quyền thi đấu’. Trong nghĩa thường thì ý là ‘bị thua bởi làm gì đó sai’ hoặc ‘bị tước đoạt mất thứ gì đó vì làm gì đó sai’. Quay lại câu trên, chỉ với một từ ‘forfeit’, Art nói với bao hàm ba nghĩa:


Nghĩa 1: ‘Ta sẽ không thua ván cờ Sovereigns Quarrel này.’


Nghĩa 2: ‘Ta sẽ không để các người tước đoạt mạng người dân của ta đâu.’ Do ban nãy Augustine đe dọa sẽ cho lính Alacrya giết dân Dicathen.


Nghĩa 3: ‘Ta sẽ không để các người tước mất khả năng hành động của ta và thua tại cái phòng khách này đâu.’)


Tôi để ánh nhìn của mình như đè nặng lên người mọi tên lính đang đứng gần tôi nhất. “Vậy thì, hạ gục ta đi chứ.”


Chẳng có lấy một hơi thở nào phát ra để gián đoạn sự im lặng kéo theo sau câu nói đó.


Rồi thì một mệnh lệnh phát ra dội vào mấy bức tường bằng đá cẩm thạch phá tan sự yên tĩnh. “Tấn công!”


Một tên hiệp sĩ từ gia tộc Dreyl lao thẳng tới và đâm bổ thanh kiếm vào bên hông tôi. Một mũi gai tạo từ băng bay vào người tôi từ sau lưng con Augustine, được niệm phép ra bởi một gã đàn ông mặc đồ của gia tộc Clarell. Rồi một đòn khác bay đến, và thêm một đòn nữa, và ngay sau đó tôi đang đứng ở tâm của một loạt các đòn đánh, một số là đòn phép, số khác là đòn từ kiếm, rìu hoặc giáo.


Nhưng chúng đều đâm vào bộ giáp cổ vật, thứ vừa mở bung ra từ trong da thịt tôi ngay tức khắc. Tôi đứng đó, hấp thụ hết những gì tệ nhất từ cuộc công kích mà không chống trả. Năm giây trôi qua, rồi mười giây. Đến giây thứ hai mươi, cuộc tấn công lắng xuống khi những điều thực tế về tình hình hiện tại bắt đầu khai sáng đầu óc mấy thằng hiệp sĩ kia.


Trong giây phút do dự đó của bọn chúng, tôi đổ ào vô cả lũ bọn chúng như một con báo bạc nhào vào giữa bầy sóc ăn thịt.


Giật thanh kiếm khỏi tay thằng hiệp sĩ nhà Dreyl, tôi đâm nó vào ngực một gã khác, chụp cổ hắn ta, và ném hắn bay vào ngọn giáo của thằng hiệp sĩ Flamesworth đang phi tới. Kích hoạt chiêu Realmheart và aether nhấp nháy sáng lên, tôi đẩy chệch hướng một quả cầu nóng chảy bằng kim loại đang lăn tới, ném nó thẳng vào mặt một thằng lính nhà Clarell cùng với lúc tôi tạo ra một thanh kiếm aether và xoay nó thành một vòng cung rộng quanh người, chém gục thêm nhiều tên khác .


Trong khi đám hiệp sĩ đang lao về phía trước, thì con Augustine rút lui, luồn qua hàng hàng lớp lớp binh lính Dicathen cho đến khi ả ta đến chỗ cửa phòng khách này. Con này không chuồn đi xa hơn, cũng không chạy bán sống bán chết hay cố biến mất vào mấy dãy phố bên ngoài. Thay vào đó, ả ta chỉ đứng và quan sát. Tôi không thể nói chính xác được là ả đang nhìn mê mẩn hay bị hóa đá.


Tôi dẫn hướng aether chạy vào nắm tay mình để tạo thành vụ nổ dồn vào một điểm, rồi quay về hướng một nhóm pháp sư conjurer đeo huy chương của Gia Tộc Wykes trên người. “Làm ơn đi, thưa Tướng Arthur,” một người trong số chúng cầu xin, “Tôi đã phục vụ cho ngài tại—”


Giọng thỉnh cầu bị ngắt đột ngột do bị nuốt chửng bởi tiếng ầm ầm từ lửa nóng như trong lò rèn tạo nên từ aether làm nổ tung đám conjurer ra thành từng mảnh.


Tôi bổ xuyên qua người đám lính còn lại thành thạo như một gã tiều phu xẻ gỗ hàng ngày. Từ hàng chục đến hàng tá đứa bọn chúng đổ sập xuống thành từng đống vỡ vụn và đẫm máu trên sàn nhà lát đá hoa cương, máu chúng tụ lại đến mức những lằn kẻ xám của các ô gạch dưới tấm thảm đỏ ướt thẫm biến mất.


Cuộc chiến chỉ kéo dài cỡ một phút trước khi tên cuối cùng trong số bọn chúng ngã xuống.


Tôi lau máu trên mặt và quay về phía con Augustine. Ả ta đã không chạy dù điều đó có lợi cho ả. Khi tôi bắt đầu đi về hướng ả, cô ả nhìn tôi đang bước lại như thể một kẻ đã chấp nhận cái chết của mình.


Cả căn phòng lại yên lặng. Vì bây giờ yên ắng như vậy, nên tôi có thể nghe thấy những âm thanh từ tiếng la hét và đòn phép bắn tới từ đằng xa.


“Ra lệnh cho lũ binh lính của cô rút lui,” tôi nói với giọng vô cảm rỗng tuếch. “Không còn người Dicathen nào bị hại nữa. Tất cả người Alacrya sẽ tập hợp lại và chuẩn bị di tản khỏi đây. Nếu điều này không được thực hiện ngay bây giờ, ta sẽ không tha cho đứa nào hết.”


Đôi mắt đen của ả không tập trung nữa, nhìn như xuyên thấu qua người tôi tới khoảng cách lưng chừng nơi mớ xác của đám hiệp sĩ Dicathen nằm rải rác khắp sàn nhà.


“Quý cô Ramseyer,” tôi cáu kỉnh quát, và cô ả nhảy dựng lên rồi vấp chân ngã bật ngửa ra sau, vẻ kinh hoàng hiện rõ trên khuôn mặt ả.


Ả ta bắt đầu lùi dần về phía sau một cách vụng về, ánh nhìn thể hiện cảm xúc không thể ngờ được đang dán chặt vào người tôi. Sau lưng ả, tôi thấy mấy cái áo choàng sang chảnh của đám thượng huyết tộc còn lại dần khuất dạng sau góc quẹo chỗ bức tường.


“Đừng thử ta thêm lần nữa.”


Gật đầu một cách điên cuồng, cô ả bắt đầu bỏ chạy. Rồi tôi chỉ còn có một mình.


Nhắm mắt lại, đôi mi của tôi bỗng trở nên nặng trĩu và nhấp nháy. Tôi thấy mệt mỏi. Quá mệt mỏi. Đây không phải là sự yếu đuối từ cơ thể hay lõi aether đang đè nặng lên tôi, mà là sự mệt mỏi của tinh thần.


Tôi giải phóng sự kết nối của bản thân với bộ giáp cổ vật, và lớp vảy đen bao quanh tôi rơi xuống biến mất vào hư không. Cố mở mắt ra, tôi nhìn quanh cuộc tàn sát mà tôi đã gây ra.


Vũ khí bằng thép vốn sáng bóng bị mờ đi thành những vệt màu nâu đỏ của máu bị oxy hóa nhanh chóng. Nhiều phần cơ thể bị cắt rời ra nằm chồng thành từng đống như những quần đảo ghê rợn giữa mặt biển đỏ tươi. Những gia huy biểu tượng (emblem) đầy màu sắc của những dòng họ quý tộc ở Xyrus dính nhiều vết máu nên không thể phân biệt được cái nào ra cái nào.


Quá nhiều kẻ trong số chúng ta vốn đã sẵn sàng chào đón gã Agrona nhằm chống lại chính chúng ta ngay từ trước khi chiến tranh bắt đầu, điều này lẽ ra không nên làm tôi ngạc nhiên khi thấy rằng với sự kiểm soát vững chắc của tụi Alacrya khi chiếm được nơi đây, thì một số người đã hoàn toàn tự thề với bản thân mình là sẽ phục vụ hắn ta. Chỉ riêng nỗi sợ hãi thôi đã dẫn dắt nhiều người đi đến kết cục đó, và sự tham lam còn kéo nhiều người theo hơn nữa.


Tôi đứng im không nhúc nhích. Khi nhìn chằm chằm vào cả đống xác kia, tôi biết những cái chết này là một gánh nặng mà tôi phải đeo trên người.


Tôi không chắc mình đã đứng lặng người ra đó trong bao lâu, câm điếc trước mọi thứ nhưng nội tâm thì hỗn loạn, cho đến khi những tiếng bước chân đang vội vã kéo tôi ra khỏi cảm xúc hỗn độn của chính mình.


Cô Jasmine đi vào phòng, bước tới vũng máu, và thình lình đứng lại giữa chừng. Đôi mắt mở to ra, rồi tập trung vào tôi. Cô ấy chắc hẳn đã thấy điều gì đó từ vẻ ngoài của tôi đã làm lộ ra cảm xúc hiện giờ, bởi vì vẻ ngoài gai góc thường ngày của cô ấy cũng trở nên mềm mỏng đi.


Tôi nhận ra Regis không ở bên cô ấy và liên hệ trong tâm trí tìm cậu ta. Tôi có thể cảm nhận được cậu ấy đang ở bên ngoài, giúp giải tán trận chiến.


“Con ổn chứ?” một lúc sau cô Jasmine hỏi.


“Con…” Khi giọng phát ra trở nên thô ráp, tôi kìm lại lời nói của mình, cảm thấy lưỡng lự khi trông yếu đuối trước mặt cô ấy. Ngốc thật, tôi tự rủa chính mình, nhớ lại lý do tại sao tôi đã yêu cầu cô ấy đi cùng ngay từ đầu. “Con đã rất nỗ lực để tránh trận chiến ở đây trở thành cuộc tàn sát,” tôi nói tiếp sau một lúc ngừng, “nhưng những tên này…”


Lời tôi nói lại tiếp tục nhỏ dần, tay tôi quơ khắp phòng thành một cử chỉ vô nghĩa. “Con đã không cho bọn chúng cơ hội,” cuối cùng tôi kết thúc nốt câu.


Jasmine dùng ngón chân huých vào một cái xác làm lật cái thân lại hướng lên trời để lộ ra tấm giáp che ngực. Còn lại rất ít đặc điểm để nhận dạng ra tên hiệp sĩ này, vì khuôn mặt bị ghim một cái rìu lên, nhưng rõ ràng trên tấm giáp che ngực của hắn là gia huy của Dòng họ Flamesworth: một bông hồng được cách điệu với những cánh hoa tạo hình từ ngọn lửa cong lên nhẹ nhàng. Gương mặt cô vẫn giữ nét vô cảm.


“Bọn chúng đã có cơ hội,” cô ấy nói tỉnh bơ. "Nhiều cơ hội rồi. Và mọi lần chúng đều tự đưa ra lựa chọn cho bản thân.”


Cô ấy đi chầm chậm giữa cả đống xác chết, mỗi bước nhấc lên để lại một dấu chân sạch (an empty patch) trên nền sàn bằng đá hoa cương đẫm máu. “Cô đã không nhận ra rằng ba của cô đã được thả ra khỏi phòng giam dưới chân pháo đài Bức Tường.”


(Người dịch: Để mình giải thích bước đi của Jasmine cho các bạn dễ hình dung: Khi Jasmine bước vào phòng, thì dấu giày từ bên ngoài vốn sạch, nên khi dẫm lên sàn dính máu, thì ngay chỗ vừa dẫm nhấc bàn chân lên bước tiếp, sẽ hình thành một dấu chân trắng sạch, giữa những chỗ nền gạch đẫm máu đó. Sạch là bởi vì mớ máu nằm trên sàn chuyển từ dính trên sàn sang dính trên đế giày. Tác giả có nhiều cách để mô tả hình tượng, nhưng chọn cách mô tả này ngay vào lúc cảm xúc Art đang rối bời có lẽ cũng có ẩn ý hình tượng gì đó. Chẳng hạn như mình đoán: hình tượng máu dính vào gót giày này thể hiện việc dây vào cái tội lỗi không dứt ra được; thế nhưng việc để lại vết sạch trên sàn giữa hàng đống vết máu thì lại ám chỉ rằng ‘muốn có những điều tốt đẹp thì phải có kẻ chịu bước vào gánh những việc xấu thay cho người khác’. Nhìn chung văn chương tác giả viết ẩn ý, ai muốn phân tích sao thì phân tích, muốn hiểu sao thì hiểu)


Tên Trodius Flamesworth đã đuổi con gái mình đi chỉ vì cô ấy thiên về dùng phép thuật bằng mana thuộc tính phong hệ. Hắn đã lên kế hoạch cho chính mình và đám bạn quý tộc của hắn sống tách biệt ra trong pháo đài Bức Tường để cứu bản thân chúng khỏi chiến tranh. Và hắn đã phản bội lại lòng tin từ chính những người lính của mình khi từ chối bỏ một đoạn tường để đạo quân quái mana biến dị mà bọn Alacrya gọi tới từ Beast Glades chiếm, một hành động trực tiếp dẫn đến cái chết của chính bố tôi.


Nhưng hắn không phải là kẻ ngoại lệ duy nhất có kiểu cư xử bẩn thỉu hèn hạ đứng trong hàng ngũ của một tổ chức đầy những kẻ có lòng vị tha khác. Không đâu, mọi tên lãnh đạo đến từ các dòng họ ở đây đều đã từng làm những điều ích kỷ, độc ác và phản quốc, đó là điều mà tôi chắc chắn.


“Gã Durden vẫn tự trách mình về cái chết của ba con, con biết đấy,” cô Jasmine nói huỵch toẹt ra.


Tôi cảm thấy mình như chùng xuống, và ngả lưng ra sau dựa vào quầy bar, đẩy xác một tên hiệp sĩ ra khỏi mặt sàn bóng loáng màu máu để có chỗ mà đứng. “Đó không phải lỗi chú ấy. Trận đó… ngay cả những pháp sư mạnh nhất cũng có thể trở thành mồi cho mấy con quái vật đấy.”


“Con nói đúng, đó không phải là lỗi của cậu ta,” cô Jasmine nói dứt khoát, vẫn tiếp tục bước qua bãi tàn sát dưới sàn. “Đó là lỗi của lão Trodius. Ông ta đã hành động cẩu thả với mạng sống của những người tin tưởng ổng.” Cô dừng lại và chỉ xuống phần thân trên của cái xác đã bị chặt bay ra khỏi nửa thân dưới. “Lãnh Chúa nhà Dreyl đã hành động cẩu thả với mạng sống của gã đàn ông này.” Cô dùng ngón chân thúc vào một tên pháp sư mặc áo choàng chiến đấu thấm đẫm máu. “Và Lãnh Chúa Ravenpoor thì làm điều tương tự với gã này.” Cô dừng lại, đặt chân vào gần phần thịt bị đứt lìa của một cái đầu. “Và lão Trodius cũng đã gửi ả đàn bà này vào chỗ chết.”


Ánh nhìn từ mắt chúng tôi chạm nhau. Có lửa nổi lên sau tròng mắt màu đỏ của cô ấy. “Đừng trừng phạt bản thân con vì những việc làm của người khác, Arthur à.”


Tôi phải hắng giọng trước khi nói. “Cuộc chiến này vẫn sẽ chưa kết thúc khi tên Alacrya cuối cùng rời khỏi những bờ biển của lục địa này. Chúng ta có quá nhiều kẻ thù vốn sinh ra ở đây và tự gọi chúng là người Dicathen.”


Cô Jasmine gật đầu, tiến đến bên cạnh tôi. Với tay qua quầy bar và rút một chai rượu trên kệ xuống, lắc chai để xoáy tròn cái thứ nước màu vàng vàng bên trong. Có điều gì đó xa xăm và ma mị trên gương mặt cô ấy, rồi cô liệng cái chai đi. “Tôi nghĩ rằng các lục địa đều đau đầu với mấy con quỷ ở chỗ họ.”


Nhiều tiếng bước chân hơn thông báo sự xuất hiện của một số người. Tay cô Jasmine đã đặt sẵn trên cặp dao găm, nhưng tôi có thể cảm nhận từ mối liên kết của mình với Regis rằng cuộc chiến đã kết thúc. Con Augustine và mấy thằng đi chung với ả đã cho lui mớ lính của chúng, như tôi đã ra lệnh.


Tôi ấn mạnh hai lòng bàn tay vào mắt, cho đến khi có dòng tĩnh điện màu trắng chạy lướt qua tầm nhìn của mình. Sau đó, hít một hơi thở thật bình tĩnh, tôi di chuyển nhanh ra chỗ cửa, không muốn có thêm bất kỳ cuộc trò chuyện nào khác trong cái phòng khách chuyển thành lò mổ này.


(Người dịch: ‘white static’ hay tạm dịch là dòng tĩnh điện màu trắng ở tấm nhìn là khi ấn tay vào mắt dụi mạnh quá sẽ gây nổ đom đóm mắt, nó giống các chớp trắng vậy)


Mặc dù ít đặt hy vọng vào một cuộc đoàn tụ, tôi vẫn bị bất ngờ trước những bóng người đang tiến đến gần, tất cả bọn họ đều dừng lại khi nhìn thấy tôi.


Chú Vincent Helstea trông khác lạ trong bộ nón giáp bằng da đang mặc trên người. Chú ấy đã già đi kể từ lần cuối tôi gặp, và tăng thêm cân nặng cho khúc giữa cơ thể, rồi còn có sự mệt mỏi tiều tụy ẩn sau đôi mắt từng rất vui tươi của chú.


Cạnh chú là cô con gái, Lilia giờ đã là một người phụ nữ trưởng thành, nhìn dữ tợn và xinh đẹp dù người đang phủ đầy máu. Mặt em nhìn tái mét, và có những giọt nước mắt đọng trên khóe mắt khi em ấy nhìn tôi trong sự bàng hoàng.


Và đằng sau cả hai người họ là cô Vanesy Glory, chẳng bị trầy xước gì từ mấy trận chiến bên ngoài.


Trong khi chú Vincent đang nhìn tôi với vẻ kinh ngạc thiếu tỉnh táo, như thể chú ấy không chắc đây có phải là một giấc mơ hay không, còn Lilia thì như sôi sục trong sự dồn nén từ cơn thịnh nộ, mắt đảo nhanh khắp mọi đường nét trên khuôn mặt tôi, tới khi đôi mắt em đụng phải ánh nhìn từ tôi và ánh mắt em neo lại ở đó.


Phía sau họ, cô Vanesy Glory đã dừng lại và đang đứng đờ người ra với một tay vắt sau lưng, tay kia cầm kiếm, mũi kiếm chúc xuống cà lên nền đá hoa cương dưới đất. Đôi mắt sáng sủa của cô như đang tỏa sáng lên, và cặp môi mím chặt vào nhau đến mức trở nên trắng bệch.


“Art, cậu bé của tôi ơi, có thực sự là con đó không?” Chú Vincent đứng hỏi từ ngưỡng cửa.


Tôi cố nở một nụ cười ấm áp với chú, nhưng biểu cảm buồn bã lại hiện rõ trên khuôn mặt tôi. “Ngạc nhiên chưa.”


Lilia thở ra thành tiếng thút thít, cơ thể em ấy căng như dây đàn, rồi con bé lao về phía trước và vòng hai tay quanh người tôi. “Arthur…em—em không thể tin được là anh còn sống!”


Tôi đón nhận cái ôm này một cách đầy biết ơn. Em ấy úp mặt vào ngực tôi, cơ thể con bé run lên vì những tiếng nức nở bị kìm nén lại. “Thế còn bé Ellie thì sao? Cô Alice nữa? Đã không có tin tức nào từ quá lâu…”


“Ổn cả,” tôi nói một cách an ủi, bàn tay đẫm máu của tôi nhẹ nhàng vuốt ve mái tóc của em ấy. “Cả hai người họ đều ổn, Lilia à.”


Em ấy tách mình ra khỏi người tôi và gạt nước mắt đi, mặt mũi nhăn nhó vì xấu hổ. “Đang làm một lãnh đạo cứng rắn cho cuộc nổi dậy mà lỡ thể hiện hơi lố rồi,” con bé nói một cách móc mỉa. “Nhưng dẫu sao thì em cho rằng hình mẫu kiểu đó giống với Chỉ Huy Glory hơn.”


(Người dịch: Lilia nói chữa thẹn vì lỡ mừng quá nhảy vô ôm crush của mình, xong đẩy cái kiểu hình mẫu ‘lãnh đạo cứng rắn’ đó cho Vanesy vì đang đứng đơ như tượng đằng sau)


“Đừng bao giờ xấu hổ về cảm xúc của mình, con yêu à,” chú Vincent nói, tự động chuyển sang giọng điệu của một người bố. “Ta không thể kiểm soát việc mình cảm thấy thế nào, và những người yêu quý và tôn trọng ta sẽ không đánh giá ta chỉ vì thể hiện cảm xúc bản thân.”


Mỉm cười, tôi đi lướt qua chỗ chú Vincent và chìa tay về phía cô Vanesy. Cô ấy rời khỏi thế đứng cứng rắn từ nãy tới giờ và bắt tay tôi rất chặt. Khi tôi gặp cô Vanesy Glory lần đầu với tư cách là giáo sư tại Học viện Xyrus, mọi hành động của cô ấy đều toát lên vẻ sôi nổi trẻ trung. Mới ngay sau khi chiến tranh bắt đầu, tôi thấy cô ấy trở nên kiên định và nghiêm túc với vai trò của mình, và thần thái hoạt bát đó đã dịu bớt phần nhiều, nhưng nhìn chung không thay đổi.


Giờ đây, cô ấy đã trở nên nóng nảy bởi nhiều năm xung đột. Không giống như chú Vincent, cuộc chiến không làm cô ấy già đi về bề ngoài; cô Vanesy của ngày xưa vẫn đang đứng trước tôi, với mái tóc hung đỏ ấy vuốt hết ra đằng sau và buộc lại, như thường lệ. Nhưng nụ cười thoải mái cũng như cái nheo mắt thích thú thường làm nhăn khóe mắt cô đã biến mất.


“Em rất tiếc là ta không còn thêm thời gian cho một cuộc đoàn tụ đúng nghĩa,” tôi nói, “nhưng tình hình ở đây đang ở thế ngàn cân treo sợi tóc. Em cần mang hết đám người Alacrya này ra khỏi thành phố Xyrus càng sớm càng tốt.”


Cô ấy siết chặt tay tôi, rồi thả tay tôi ra và lùi lại một bước. “Tất nhiên, Arthur.” Cô do dự. “Tôi ... mọi người nghĩ rằng cậu đã chết.” Cô ấy nhìn xuống đất, quai hàm nghiến chặt.


“Chà, em chưa chết đâu,” tôi nói nhẹ nhàng. “Em hứa sẽ kể hết cho cô nghe mọi thứ, nhưng còn hiện giờ, ta cần mọi con mắt canh chừng khắp thành phố. Cô có thể cử các đội đi tuần tra không? Chúng tôi cần sự hiện diện trên đường phố để đảm bảo rằng bọn binh lính Alacrya không thực hiện những hành động sai lầm.”


Cô Vanesy đang cau mày, và nét cau mày chỉ trở nên rõ nét hơn khi tôi nói. “Tôi không hiểu. Tại sao ta lại cho phép chúng rời—”


Tôi không thể kìm được tiếng thở dài thườn thượt tự nhiên thoát ra từ môi mình. Cô ấy ngừng nói, và hàm răng bắt đầu nghiến lại với sự kích động.


Tôi nghĩ đây là điều mình cần nhớ. Trong khi tôi ở lục địa khác học cách nhìn những người Alacrya như những con người, thì những người ở đây trong cái lục địa Dicathen này chỉ chứng kiến​​những hành động tàn ác vô nhân đạo nhất của bọn chúng. Tôi không thể trách cứ các đồng đội mình vì không háo hức vẫy tay tiễn chào mấy kẻ đàn áp họ thoải mái hành quân đi chỗ khác.


“Em biết rất nhiều kẻ trong số những tên Alacrya này đã phạm những tội ác đáng bị trừng phạt. Chiến tranh là chiến tranh, và những tội lỗi đó thật khó để tha thứ. Em sẽ không giả vờ biết hết mọi thứ chúng đã làm với mọi người và người thân của mọi người kể từ khi chiến tranh kết thúc đến giờ. Nhưng làm ơn đi, giờ không phải là lúc để bộc lộ bất kỳ kiểu thịnh nộ nào trong lòng mình.”


Tôi nhìn cô ấy một hồi lâu. Đôi găng tay cô đang mang kêu cót két khi chà sát trên cán kiếm. Rồi cô ấy cúi gập thân ngay chỗ thắt lưng và nghiêng đầu hơi thấp chào tôi. “Đương nhiên rồi. Thưa Tướng quân.”


Tác giả: TurtleMe


Người dịch: Nightmoonlight
Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện