Theo ý kiến của Charlie, Olivia rầy rà ở chỗ: con nhỏ không bao giờ thấy được phần lỗi trong cách hành xử của mình.
“Lần này thì nó phải thấy thôi”, Charlie đang lầu bầu một mình bỗng nghe có tiếng người vọng ra từ đống đổ nát. Nó đã tiêu gần hết thời gian của giờ nghĩ giải lao đầu tiên để đi tìm Olivia. Đáng lẽ ra nó phải biết con nhỏ trốn trong lâu đài chứ.
“Tìm được rồi!” Charlie hét om sòm, nhảy phóc qua ô của vòm. Nhưng tất cả mọi ý định của nó với Olivia bỗng rời bỏ nó ngay tức khắc trước cảnh tượng hỗn độn đang bày ra đằng kia, trong khỏang sân gạch. Những phiến đá lát đổ nát khổng lồ đã bị nứt tóac và vỡ tung tóe. Mảnh vỡ văng khắp nơi, và ngay cái chỗ ngày xưa vẫn có một phiến đá rất lớn thì nay là một cái hố đen ngòm, còn phiến đá lớn ấy thì bể làm đôi, nằm chỏng chơ bên cạnh hố.
“Cái quái gì thế này?” Charlie hết hồn.
“Mình biết... quái dị, nhỉ?” Emma, đứng sát bên Olivia, đang sợ hãi nhần nhần một lọn tóc vàng của mình.
“Đây là hiện trường của một cuộc tìm kiếm” Olivia tuyên bố chắc chắn như thế. Và tớ suy luận rằng cái người định tìm cái gì đó đã tìm thấy nó bên dưới phiến đá này rồi.”
Charlie chăm chú dòm xuống khoảnh đất thê lương hình chữ nhật. Ở chính giữa khỏanh đất ấy lõm vào một khối hình vuông có thành bám đầy những mẫu gỗ mục, như thể đã từng có một hộp nhỏ đặt ở đó. Nắp hộp rõ ràng đã mục nát, và giờ đây cái khối hình hộp kia chứa đầy đất với lá cây. Thế nhưng ở chính giữa hộp vẫn còn nhìn thấy rõ một ngấn vòng tròn. Cái hộp chắc đã từng đựng một vật hình tròn gắn liền với cái gì đó hình ôvan thuôn dài-phải chăng là cái cán? Căn cứ vào khuôn nếp còn sắc nét của vòng tròn thì có vẻ món đồ ấy chỉ vừa mới được lấy lên. Charlie chợt nghĩ hay đó là “món đồ tạo ác” mà Ông cậu nó nhắc tới, giờ đã bị bốc lên khỏi mặt đất.
“Tụi mình đi khỏi đây đi”, Emma giục. “Ngó cái này làm mình ớn lạnh luôn”.
Trong khi chúng dắt díu nhau đi khỏi khu đổ nát, Charlie khơi lại đề tài con cá sấu. “Bồ nghĩ sao mà khờ quá vậy hả?” Nó chất vấn Olivia, cẩn thận để không bị đôi giày màu hoa cà y tông như giày phù thủy của con nhỏ giậm phải. “ý mình mà, sao lại có cá sấu... ở ngay bên ngòai phòng ngủ chung?”
“Tại mình phát bệnh vì những lời than van của tụi nó” Olivia sửa lại cái khăn to sụ cũng màu hoa cà trên đầu. “Tụi nó cứ ca cẩm riết, nào là mèo bị mất, nào là chó biệt tăm, rồi những dỉ những di,...” một tia lửa tinh quái nhóe lên trong mắt con bé. “Mà đằng ấy có biết lũ chó săn nhà Loom cũng mất dạng rồi không? Dorcas có bao giờ thích mấy con chó đâu, vậy mà cũng khóc ri rỉ như nước cống vậy. ‘Ối, các anh tội nghiệp của tôi, họ bị mất chó rồi’ Thế là mình nghĩ biết đâu cá sấu Châu Mĩ sẽ làm nàng vui lên.”
Olivia là một diễn viên tài năng và Charlie không thể không mỉm cười trước điệu bộ diễn tả về Darcas Loom đầy ấn tượng của con nhỏ. “Có ngày bồ sẽ hù ai đó sợ đến chết luôn cho coi, Liv, thế rồi sau đó tụi mình sẽ ra sao? Bồ sẽ bị phát hiện và bồ sẽ tiêu tùng. Gia đình Bloor đang ráo riết truy tìm người làm ra ảo ảnh đấy.”
Olivia cười roi rói “Mình sẽ không bị phát hiện đâu”
“Có thể lắm chứ sao không” Emma bác lại “khi đó bồ sẽ chẳng đỡ đần tụi này được. Nên nhớ bồ là vũ khí bí mật của tụi này đó.”
Olivia thở dài cái thượt “Thôi được. Mình hứa sẽ thin thít một thời gian. Nhưng mình phải công nhận là dọa cho người ta sợ vãi hồn vãi vía cũng vui thật đấy. Tất nhiên là dọa mấy đứa đáng dọa ấy.”
Charlie nhìn ra chỗ khác. “được ban phép thật không phải là chuyện giỡn chơi đâu.” Nó hầu như không tin nổi mình vừa nói cái gì. Những lời ấy đã vuột ra khỏi miệng nó hồi nào nó không hay.
“Nghe chẳng giống Charlie nói tí nào nhỉ” Olivia nhận xét.
Charlie nhún vai, “Thì coi như một Charlie mới toanh nói đi. Bây giờ mình mười hai tuổi rồi mà” Nói rồi nó chạy vọt đi khỏi nhỏ bạn gái.
“Đừng để tuổi tác của đằng ấy trở thành gánh nặng đấy nha, Charlie” Olivia gọi với theo.
Charlie quay lại vẫy nhỏ bạn một cái “Bồ điên hả?”
Tuy nhiên, khi ngẫm nghĩ lời Olivia, nó thấy quả thực phép thuật của mình dạo này chả được tích sự gì.
Olivia đã giữ lời hứa. Suốt thời gian còn lại trong tuần đã không có con cá sấu Châu Mĩ nào bên ngòai phòng ngủ chung, không có khủng long đi thẩn thơ ngòai vườn, cũng không có những chiến binh thời trung cổ vung rìu phi ngựa qua trường (một trong những biệt tài của Olivia).
Lúc này nếu May phúc mà có lại thấy cái bóng lần nữa thì chắc con chó cũng sẽ giữ riêng không nói cho ai nghe, có lo cũng không được; nên mối lo chính của Charlie bây giờ là sự có mặt đầy cản trở của cha mẹ Benjamin.
Vào thứ sáu, khi Charlie hỏi Billy có muốn về nhà nó vào cuối tuần không, câu trả lời của thằng bé khiến nó ngạc nhiên quá.
“Cô Brown bảo em chơi với Benjamin rồi” Billy hớn hở “Anh biết mà, anh ấy cô đơn vì không có con chó.”
Charlie ngạc nhiên nhưng cũng cảm thấy hơi tội lỗi, tuy việc Hạt Đậu bỏ đi không phải là lỗi của nó. Nhưng nó, Charlie đây, là bạn của Benjamin. Tại sao nó không thể bầu bạn với Benjamin chứ? Nghĩ thế nhưng nó chỉ nói, “ờ ờ, được thôi”
Về đến nhà, Charlie ngồi bên bàn nhà bếp trong khi ngọai Maisie đứng khuấy trứng trong một cái nồi.
“Một tuần lễ mới lạ đời làm sao” ngọai Maisie chép miệng “Không có chim chóc, không có mèo trên hàng rào, không có chó đeo dây dắt. Ngọai chưa bao giờ thấy bọn ấy là có gì quá quan trọng cả, nhưng không có chúng thì quả là trống vắng ghê gớm, con nhỉ. Người ta đang xôn xao là thành phố sắp chết rồi.”
“Ừmm” Charlie ậm ừ. Nó đang tự hỏi liệu mình có gặp cô bé mặc áo màu nắng nữa hay không.
“Người ta đã thúc cảnh sát phải vào cuộc; rồi cả hội bảo vệ thú vật, đám viên chức hội đồng thành phố và các thám tử tư, có trời mới biết còn những sở với ban gì bị lôi vào nữa” Ngọai Maisie bưng một dĩa trứng trộn to tú hụ đặt lên bàn và nhìn sát vào mặt Charlie. “Có chuyện gì vậy, Charlie? Một tuần tệ hại hả?”
Charlie lắc đầu, “không hẳn ạ.”
“Benjamin có đến chơi không?”
Charlie nhún vai “Billy Raven sẽ ở lại với Ben kì nghỉ cuối tuần này.”
“Ơ, bất ngờ thật” Ngọai Maisie nhướn đôi lông mày. “Ai mà ngờ chúng lại là bạn với nhau chứ.”
“Còn Fido sẽ chơi trong giàn nhạc,” Charlie rầu rĩ nói tiếp.
“Sao nghe như than thân trách phận vậy” ngọai Maisie ngồi xuống cạnh Charlie “Nào, ăn món trứng mê ly này đi. Ngon hơn cái thứ lằng nhằng, hay cái gì đó mà Bone vẫn mê mẩn”.
Charlie ráng nhếch miệng lên cười. Nó vừa định khai mạc bữa ăn của mình thì Ông cậu Paton xăm xăm đi vào và mở phăng tủ lạnh ra, tuyên bố “Ta đói ngấu. Hôm nay giỏ thức ăn sẽ không đến, họ báo cho ta vậy rồi. Hy vọng con không thất vọng chứ, Charlie?”
Thứ Sáu nào Ông cậu Paton cũng đều có một giỏ thức ăn lớn toàn sơn hào hải vị do một cửa hàng trong thành phố mang đến. Charlie chìm ngập trong những mối lo của riêng đến nỗi quên cả ngóng chờ giỏ đồ ăn.
“Có chuyện gì vậy ạ?” Nó hỏi
“Ông chủ chết đột ngột” Ông cậu Paton bảo.
Charlie buông nĩa xuống “Chỉ thế thôi ạ? Chết đột ngột? Chết khi đang ở cửa hàng ạ? Mọi người hoảng sợ lắm không ạ?”
“Ừ, phải đấy. Đấy là câu trả lời chung cho tất cả những câu của mày” Ông cậu Paton đáp.
“Tin đó cũng có đăng trên báo” ngoại Maisie nói “cùng với tin thú vật biến mất. Quả là một tuần kì dị”.
“Ông ấy chết vì cái gì ạ?” Charlie thấy mình không thể ăn nổi nữa.
“Hừ. Bí hiểm.” Ông cậu Paton mang một đĩa phó mát và bánh bích quy ra bàn. “Ta ăn món trứng của con nhé, Charlie?”
Ngoại Maisie đập vào bàn tay Ông cậu vừa giơ ra còn cách dĩa trứng của Charlie vài phân. “Thằng bé cần ăn uống cẩn thận” bà gay gắt “Charlie, ăn hết đi”.
“Thế các bác sĩ không biết sao?” Charlie đút một nĩa đầy trứng vào miệng. Nó thất lo lắng trước việc ông chủ cửa hàng chết bất đắc kì tử mà không giải thích được.
“Tim ông ta ngừng đập không rõ nguyên nhân” Ông cậu Paton nói “Một người rất cường tráng. Chăm chạy bộ. Buồn thật. Tuy vậy, may là không có gia đình. Người chủ mới đã tiếp quản công việc rồi – một người bà con, ta được báo như thế. Họ sẽ hoạt động trở lại bình thường vào tuần sau và chúng ta sẽ lại có tiệc cuối tuần.” Lần này Ông cậu Paton là người ngó mặt Charlie. “Thấy gánh nặng tuổi tác rồi sao Charlie? Mới mười hai tuổi thôi mà, làm gì ghê thế!”.
“Mười hai” Charlie lặp lại “Con được hai tuổi thì ba mất tích. Cách đây mười năm. Mười. Đó là con số may mắn, Ông cậu có nghĩ vậy không?”.
Vẻ hoan hỉ của Ông cậu Paton xẹp bớt đi. “Mười?” Ông trầm ngâm lặp lại. “Hừ, Vua Đỏ có mười người con, nhưng đó có phải may mắn hay không thì còn tùy thuộc vào quan điểm của mỗi người”.
“May mắn cái nỗi gì” Ngoại Maisie lẩm bẩm.
Nghe có tiếng ai đó leo lên bậc cấp của trước, và khi Charlie quay đầu sang nhìn ra cửa sổ, nó thấy Benjamin và Billy bước vào chiếc xe hơi của nhà Brown. Họ đi đâu vậy? Nó tự hỏi. Đi xem phim chăng? Hay đi chơi bô-ling?
Cô Amy Bone bước vào nhà, trông mệt mỏi sau một tuần chỉ tòan cân rau quả. Như thường lệ, cô tận dụng những thứ bỏ đi ở cửa hàng.
“Thơm đây” cô vui vẻ nói, đặt phịch cái bao đựng những quả thơm có gai xù xì lên bàn. “Bù cho giỏ đồ ăn không đến” Cô hôn phớt qua má Charlie. “Trông con bí xị vậy, Charlie”.
“Gặp lại mẹ vui quá” Charlie đem dĩa vừa ăn xong ra bồn rửa.
“Tuần này chúng ta sẽ gặp Benjamin thì phải?” Mẹ Charlie hỏi “Chắc hai đứa có nhiều thứ để kể cho nhau lắm nhỉ?”.
“Không ạ” Charlie quay lại, và với tấm lưng hướng về phía bồn rửa, nó nhìn ba người thân của mình một cách đầy phản kháng. Họ cũng ngước lên nhìn nó đầy chờ đợi.
“Con sẽ không gặp Benjamin tại vì nó đổ lỗi tại con mà Hạt Đậu biến mất. Fidelio sẽ chơi đàn với giàn nhạc còn Billy Raven sẽ ở với gia đình Brown. À mà ba mẹ của Benjamin bây giờ đã làm việc tại học viện Bloor rồi đấy”.
“Quái lạ” Ông cậu Paton thốt lên.
“Nhưng con không cô đơn đâu” Charlie tiếp “bởi vì con sẽ đến tiệm sách cô Ingledew. Được không ạ?
“Dĩ nhiên là được, Charlie” mẹ lẳng lặng nói.
Miệng vừa tuyên bố tiệm sách cô Ingledew là nơi thú vị nhất trên thế giới, Ông cậu Paton vừa đứng lên vỗ vai Charlie và lại bắt đầu lục lọi tủ lạnh một lần nữa.
Thế đấy.
Có điều Charlie đã không đến tiệm sách được nữa, bởi vì sáng sớm hôm sau, một tiếng gõ nhẹ trên cửa sổ đã dẫn nó vào cuộc phiêu lưu làm thay đổi cuộc đời nó hòan tòan. Và cả cuộc đời của nhiều người khác nữa.
Tiếng gõ nhẹ xảy đến lúc bình minh. Charlie tỉnh giấc. Ngay khỏang hở giữa những tấm rèm, nó thấy con bướm trắng quạt quạt qua cửa sổ. Thọat đầu Charlie tưởng là tiếng đập cánh vào kính nhẹ hều đó đã đánh thức mình dậy. Nhưng ngay sau đó lại có một cú đập nữa, lần nay đanh hơn và to hơn.
Charlie đi tới cửa sổ và nhìn ra ngòai. Cây dẻ bị bao đặc nghịt một lớp sương mù trắng trợt, khô lạnh. Trong ánh bình minh xam xám, Charlie nhận ra một dáng hình đang đứng dưới những cành cây dẻ đóng băng. Đó là một cô bé mặc áo màu vàng nắng. Cái mũ trùm đầu bị lật ra sau lưng và cô bé quấn một chiếc khăn dày sặc sỡ quanh cổ và che kín luôn miệng. Cô bé vẫy Charlie.
Charlie mở cửa sổ “Chào! Em muốn gì?”
Cô bé kéo chiếc khăn quàng đang che trước miệng xuống. “Charlie Bone, em muốn dẫn anh tới một nơi.”
Charlie nghi ngờ “Tại sao?”
“Anh không tin em sao?”
“Anh không biết em”.
Cô bé nhíu mày, “Anh sẽ phải tin tưởng em, nếu anh muốn tìm thấy bọn thú.”
“Bọn thú!” Charlie buột kêu lên. “Em biết chúng ở đâu à?”
“Suỵt!” Cô bé đặt một ngón tay lên môi “Anh có đi không?”
“Đi”.
Charlie hối hả choàng những đồ ấm nhất của mình vào: Vớ dày, áo len chui đầu cũng dày, giày ống, áo gió độn bông. Khi đi ngang qua nhà bếp, nó đã nghĩ đến việc để lại một mẩu tin nhắn, nhưng nó nên nhắn gì bậy giờ nhỉ? Tốt hơn là cứ để cho mẹ tin rằng mình đi tới tiệm sách cô Ingledew, nó quyết định vậy.
Cô bé đang đợi nó ở chân bậc cấp. Mái tóc đen bóng cuốn chặt trong chiếc khăn quàng và đôi mắt đen lấp lánh láu lỉnh. Cô chìa tay ra. “Hân hạnh gặp anh, Charlie Bone”.
Charlie bắt tay cô bé “Em là ai”.
“Naren, tiếng Trung Hoa có nghĩa là hoa hướng dương. Chúng mọc bên ngoài cửa nhà em. Đi. Bọn mình hãy đi trước khi thành phố thức giấc nào.”
Cô bé bắt đầu chạy trên đường Fibert với Charlie thở hổn hển theo sau, ngạc nhiên quá đỗi về tốc độ của đôi chân bé xíu kia, nhún nhảy trong đôi bốt đen. Đến trường Đồi Cao, Naren dừng lại chờ cho Charlie bắt kịp. Mãi cuối cùng Charlie mới thốt nên lời “Tại sao lại là anh? Tại sao em lại chọn anh đi tìm bọn thú?”
“Tại vì anh là Charlie Bone,” Naren nói “Vì vậy chọn anh là thích hợp”.
“Anh không hiểu”.
“Cha em biết anh. Cha em lo cho anh”.
“Cha em?” Tim Charlie giật đánh thót “Ông ấy cũng là cha anh không đấy?”
“Không. Không phải” Naren hạ ánh mắt xuống, “Xin lỗi, Charlie” Rồi cô bé ngước mắt lên “Nhưng cha em là một người bạn của cha anh”.
“Thật à? Cha em có biết cha anh ở đâu không?” Charlie căng người lên hy vọng.
“Không, Xin lỗi, xin lỗi. Cha em từng là bạn của cha anh. Còn bây giờ cha anh mất tích rồi”.
“Phải” Charlie thở dài.
“Cha ruột của em cũng bị mất tích. Nhưng giờ... đi thôi, còn lũ thú nữa.” Naren lại phóng đi tiếp, nhưng lần này cô bé giữ tốc độ cho bằng với Charlie, và trong khi cả hai đưá cũng chạy qua thành phố, cô bé kể cho Charlie nghe chuyện mình vẫn dõi theo Charlie và các bạn ra sao – dõi theo những đưá con của Vua Đỏ như chính cô bé. Rồi cô thổ lộ mình vẫn ao ước được noí chuyện với Charlie như thế nào. “Nhưng cha em cấm em không được tới gặp anh” cô bé buồn bã noí.
“Tại sao vậy?” Charlie hỏi “nếu cha em biết anh thì sao lại cấm? Và nếu em cũng là một đưá như bọn anh...?”
“Cha em sẽ giải thích sau,” Naren đột ngột tăng tốc. Vưà chạy cô bé vừa nói, gần như thì thào. “Thể nào ông cũng sẽ nổi tam bành với em, bởi vì ông cấm em vào thành phố”,
Charlie liếc nhìn gương mặt nhỏ nhắn đầy lo âu của cô bé, nhưng không hỏi thêm gì nưã. Naren dẫn nó qua một khu lạ hoắc của thành phố. Những hàng cây trọc lóc vươn lên bầu trời lạnh lẽo, và những ngôi nhà bị che khuất một phần sau những hàng rào cao viền sương mù như đăng ten. Naren kìm bước lại và thận trọng vòng qua tránh những vũng nước băng giá trên vỉa hè. Cô bé bất chợt quẹo trái, và Charlie, vẫn bám theo sau, thấy mình lọt vào lối đi hẹp rí xoáy xuống, xuống mãi. Nó nghe thấy có tiếng ục ục càng lúc càng dồn dập theo mỗi bước chân mình.
Naren tới một hàng rào chắn thì ngoái lại nhìn và phán “Chúng ta đi được nửa đường rồi. Nhưng giờ là lúc phải cẩn thận nhất đấy”,
“Mới nửa đường thôi à?” Charlie tuột xuống tới chỗ cô bé và chụp lấy hàng rào. Nhìn xuống, nó thấy bên dưới, phải đến gần hai chục thước, một dòng nước điên cuồng chảy xiết. Bọt trắng xóa trong mù, sôi sùng sục chồm lên những tảng đá đen thui thủi rải lô xô khắp khu vực sông sâu thẳm, và Charlie đờ ra như bị thôi miên trước cảnh cuồn cuộn đến rợn người của dòng nước.
“Sông” nó thở dốc “Anh không biết nó lại gần thành phố đến vậy”.
Naren nhoẻn một nụ cười bí hiểm, “Giờ ta phải băng qua thôi.”
“Vậy sao?” Charlie nói một cách hoài nghi.
“Nhà em bên kia sông.”
Charlie nhìn qua vực thẳm. Ở đỉnh vách đá phía đối diện là một khu rừng rậm vươn xa ngút tầm mắt. “Em sống bên đó à?” Nó hỏi mà chẳng tin tí nào.
“Người ta có thể sống trong rừng chứ bộ” nụ cười của Naren rộng thêm.
“Ừ, nhưng cánh rừng kia ấy hả?” Charlie nhìn trân trân vào thảm cây cối đằng xa. “Anh nghe nói đó là đồng hoang mà”.
“Có lẽ hoang thật” cô bé khoác lấy cánh tay nó và chỉ xuống dưới “Có cái cầu. Đi thôi.”
Charlie chồm người qua hàng rào và thấy một dải sắt rèn mỏng manh treo lơ lửng bên dòng sông, trông cũ kĩ và nguy hiểm.
“Đó á?” Nó the thé kêu lên.
“Có một cây cầu lớn ở xa đây hơn một chút” Naren nói “nhưng đông xe cộ lắm. Em thích cái này, với một cô bé mà mình chỉ vừa mới gặp. Nó men theo lộ trình nguy hiểm của cây cầu sắt. Lại gần, trông cây cầu thậm chí còn nguy hiểm hơn nữa. Tay vịn nổi hột những đụn băng nhỉ giọt còn mặt cầu thì xám xịt sương giá.
Có một tấm biển treo trên một sợi dây điện giăng ngang qua lối vào cầu, đề: NGUY HIỂM. CẦU KHÔNG AN TOÀN.
Nhưng Charlie còn lâu mới để một cô bé Trung Hoa qua mặt. Thanh sắt rỉ sét kêu lát chát trong tiếng bốt lướt qua cầu của Naren, và Charlie, khó nhọc nuốt nước miếng khan, lộp cộp bám theo sau cô bé.
Chúng băng được nửa chừng cầu thì Charlie bỗng nghĩ tới lời nó đã hứa vào đúng sinh nhật thứ muời hai. Nó đã hưá với mẹ rằng sẽ không ra những quyết định hấp tấp nữa; rằng nó sẽ dừng lại để cân nhắc những hậu quả trước khi lao vào việc gì. Ấy thế mà, nó đang ở đây, bước trên một cây cầu lắc lẻo bắc qua một con sông mà chắc chắn sẽ dìm nó mất xác nếu chẳng may rơi xuống.
Naren ngoái lại nhìn. “Sao anh dừng thế?” Cô bé gọi.
“Anh đang chiêm ngưỡng cảnh vật thôi mà,” Charllie màu mè.
“Mau lên.”
Đúng khoảnh khắc đó, một cái giằng đỡ tay vịn kim loại bỗng văng ra và rớt đánh choang xuống những tảng đá bên dưới. Toàn bộ cây cầu rung rinh, và những cột băng, như một cơn mưa, dội xuống xoáy tít vào những khoảng không.
Charlie cứng cả người.
“Không sao đâu,” cô bé mỉm cười khích lệ “Chúng ta, anh với em không nặng. Cầu sẽ giữ được chúng ta.”
Nghiến răng chặt lại, Charlie xoãi dài bước chân theo sau cô bé.
Khi đến đầu kia cây cầu, nó che giấu sự thở phào nhẹ nhõm của mình bằng cách hờ hững đu mình giữa hai cây cọc chống cuối cùng, và nhảy lên một dải đá vững chắc đang mời chào.
Naren bật cười lớn. “Leo tiếp nào,” cô bé nói.
Bầu trời đã trở nên sáng sủa hơn và lượt leo lên đỉnh vách đá xem ra không nguy hiểm bằng lượt leo xuống sườn bên kia.
Trên vách đá, chúng bị đám cây cối bạt ngàn nhưng trụi lủi vây lấy. Một con đường lờ mờ len lỏi ngang qua rừng, và Charlie, bước đằng sau Naren, nhận thấy nơi này tràn ngập âm thanh. Từ trên những cành cây trơ lá, bầy chim rìu rít dòm xuống bọn trẻ đi bên dưới; ngay cả cỏ khô cũng lao xao sức sống. Thỏ nhảy bên lề đường, một chú hươu đực hé mắt ngó ra từ phía sau cây, và rồi dần dần, những âm thanh hoang dã đã bị nhấn chìm bởi một tiếng chó sủa mừng quýt không dứt.
Vài giây sau, Hạt Đậu xông vút qua một bụi cây thấp và phóng lên người Charlie, tru tréo mừng rỡ.
“Hạt Đậu!” Charlie hét lên, ôm chầm lấy con chó vàng bự xự.
“Con đấy của anh à?” Naren hỏi.
“Không. Của bạn anh. Nhưng anh thấy mình có trách nhiệm với nó, vì Benjamin bạn anh hồi ấy đi vắng.”
“Con này là con đầu tiên đi qua cây cầu đó.” Naren nói “Rồi những con khác mới theo sau: chó, mèo, ngựa lùn, dê, thỏ, tất tần tật các loại thú. Cả nhà em nghe thấy tiếng bọn nó mới chạy vội ra vách đá xem sao. Thật là một cảnh tưọng ngoạn mục, tất cả muông thú dưới trăng, chạy qua cầu.”
“Nhưng tại sao bọn chúng lại tới đây?”
“Bởi vì ở đây an toàn hơn. Anh không thấy thế sao? Ở đằng kia, trong thành phố, có cái quỷ quái gì đó vừa mới thức dậy. Cha em sẽ giải thích cho anh.”
Charlie chưa kịp hỏi thêm gì nữa, Naren đã quay ngoắt đầu và vọt chạy huỳnh huỵch dọc theo lối mòn. Hạt Đậu nhảy chồm bên cạnh cô bé, nhưng Charlie bám theo sau với tốc độ chậm hơn. Nó ngước lên nhìn vòm lá trên đầu. Đúng là ở đây an toàn hơn. Có một sự yên lặng, một cảm giác tuyệt vời vì được bảo vệ. Nó tự hỏi người mà mình sắp gặp là loại người nào. Nếu Naren là hậu duệ của Vua Đỏ, thì rất có thể cha cô bé cũng vậy. Ông ấy là một thầy pháp? Một nhà thôi miên? Một người thú?
Một hàng rào hiện ra trong mắt, và một cái cổng để mở. Tim Charlie bắt đầu đập bưng bưng. Naren đã đứng bên tường rào, nhưng Hạt Đậu còn chờ Charlie để cả hai cùng nhau bước qua cổng, vào một khoảnh đất rộng quây kín rào.
Ở đầu kia, một ngôi nhà nhỏ kiểu quê đứng đó, hai bên đều có chuồng súc vậy xây bằng gạch đỏ. Khói lừ đừ bay lên từ ống khói của ngôi nhà và trên mái phủ đầy chim đậu. Thú vật đủ mọi dáng hình trám kím khoảnh đất trong hàng rào. Này là bầy ngưạ lùn đang gặm ăn trong những máng đá và lũ mèo ngồi trên hàng rào.
Một con chim xám vưà lướt vù ra khỏi cửa sổ vưà gọi “bớ chó!” Chắc chắn đây là con vẹt Homer của Lysander rồi.
Charlie hầu như không quan tâm để ý tới sự hiện diện của những sinh vật khác. Mối quan tâm của nó dồn cả vào dáng người đang đứng trước nhà. Một ông già và mái tóc trắng một cách sửng sốt. Bất chấp trời lạnh, ông chỉ mặc độc một chiếc áo sơ-mi kẻ ô vuông bỏ ngoài chiếc quần jeans bết bùn. Làm da nắng cháy làm nổi bật màu xanh thăm thẳm trong đôi mắt tinh anh của ông, đôi mắt đang nhìn Charlie không chớp mắt vì kinh ngạc và vì đã nhận ra.
Vì Charlie để ý thấy một cây rìu lớn treo ngang tầm ngực người đàn ông. Trông ông cũng rất sẵn sàng để sử dụng cái vật ấy.
“Lần này thì nó phải thấy thôi”, Charlie đang lầu bầu một mình bỗng nghe có tiếng người vọng ra từ đống đổ nát. Nó đã tiêu gần hết thời gian của giờ nghĩ giải lao đầu tiên để đi tìm Olivia. Đáng lẽ ra nó phải biết con nhỏ trốn trong lâu đài chứ.
“Tìm được rồi!” Charlie hét om sòm, nhảy phóc qua ô của vòm. Nhưng tất cả mọi ý định của nó với Olivia bỗng rời bỏ nó ngay tức khắc trước cảnh tượng hỗn độn đang bày ra đằng kia, trong khỏang sân gạch. Những phiến đá lát đổ nát khổng lồ đã bị nứt tóac và vỡ tung tóe. Mảnh vỡ văng khắp nơi, và ngay cái chỗ ngày xưa vẫn có một phiến đá rất lớn thì nay là một cái hố đen ngòm, còn phiến đá lớn ấy thì bể làm đôi, nằm chỏng chơ bên cạnh hố.
“Cái quái gì thế này?” Charlie hết hồn.
“Mình biết... quái dị, nhỉ?” Emma, đứng sát bên Olivia, đang sợ hãi nhần nhần một lọn tóc vàng của mình.
“Đây là hiện trường của một cuộc tìm kiếm” Olivia tuyên bố chắc chắn như thế. Và tớ suy luận rằng cái người định tìm cái gì đó đã tìm thấy nó bên dưới phiến đá này rồi.”
Charlie chăm chú dòm xuống khoảnh đất thê lương hình chữ nhật. Ở chính giữa khỏanh đất ấy lõm vào một khối hình vuông có thành bám đầy những mẫu gỗ mục, như thể đã từng có một hộp nhỏ đặt ở đó. Nắp hộp rõ ràng đã mục nát, và giờ đây cái khối hình hộp kia chứa đầy đất với lá cây. Thế nhưng ở chính giữa hộp vẫn còn nhìn thấy rõ một ngấn vòng tròn. Cái hộp chắc đã từng đựng một vật hình tròn gắn liền với cái gì đó hình ôvan thuôn dài-phải chăng là cái cán? Căn cứ vào khuôn nếp còn sắc nét của vòng tròn thì có vẻ món đồ ấy chỉ vừa mới được lấy lên. Charlie chợt nghĩ hay đó là “món đồ tạo ác” mà Ông cậu nó nhắc tới, giờ đã bị bốc lên khỏi mặt đất.
“Tụi mình đi khỏi đây đi”, Emma giục. “Ngó cái này làm mình ớn lạnh luôn”.
Trong khi chúng dắt díu nhau đi khỏi khu đổ nát, Charlie khơi lại đề tài con cá sấu. “Bồ nghĩ sao mà khờ quá vậy hả?” Nó chất vấn Olivia, cẩn thận để không bị đôi giày màu hoa cà y tông như giày phù thủy của con nhỏ giậm phải. “ý mình mà, sao lại có cá sấu... ở ngay bên ngòai phòng ngủ chung?”
“Tại mình phát bệnh vì những lời than van của tụi nó” Olivia sửa lại cái khăn to sụ cũng màu hoa cà trên đầu. “Tụi nó cứ ca cẩm riết, nào là mèo bị mất, nào là chó biệt tăm, rồi những dỉ những di,...” một tia lửa tinh quái nhóe lên trong mắt con bé. “Mà đằng ấy có biết lũ chó săn nhà Loom cũng mất dạng rồi không? Dorcas có bao giờ thích mấy con chó đâu, vậy mà cũng khóc ri rỉ như nước cống vậy. ‘Ối, các anh tội nghiệp của tôi, họ bị mất chó rồi’ Thế là mình nghĩ biết đâu cá sấu Châu Mĩ sẽ làm nàng vui lên.”
Olivia là một diễn viên tài năng và Charlie không thể không mỉm cười trước điệu bộ diễn tả về Darcas Loom đầy ấn tượng của con nhỏ. “Có ngày bồ sẽ hù ai đó sợ đến chết luôn cho coi, Liv, thế rồi sau đó tụi mình sẽ ra sao? Bồ sẽ bị phát hiện và bồ sẽ tiêu tùng. Gia đình Bloor đang ráo riết truy tìm người làm ra ảo ảnh đấy.”
Olivia cười roi rói “Mình sẽ không bị phát hiện đâu”
“Có thể lắm chứ sao không” Emma bác lại “khi đó bồ sẽ chẳng đỡ đần tụi này được. Nên nhớ bồ là vũ khí bí mật của tụi này đó.”
Olivia thở dài cái thượt “Thôi được. Mình hứa sẽ thin thít một thời gian. Nhưng mình phải công nhận là dọa cho người ta sợ vãi hồn vãi vía cũng vui thật đấy. Tất nhiên là dọa mấy đứa đáng dọa ấy.”
Charlie nhìn ra chỗ khác. “được ban phép thật không phải là chuyện giỡn chơi đâu.” Nó hầu như không tin nổi mình vừa nói cái gì. Những lời ấy đã vuột ra khỏi miệng nó hồi nào nó không hay.
“Nghe chẳng giống Charlie nói tí nào nhỉ” Olivia nhận xét.
Charlie nhún vai, “Thì coi như một Charlie mới toanh nói đi. Bây giờ mình mười hai tuổi rồi mà” Nói rồi nó chạy vọt đi khỏi nhỏ bạn gái.
“Đừng để tuổi tác của đằng ấy trở thành gánh nặng đấy nha, Charlie” Olivia gọi với theo.
Charlie quay lại vẫy nhỏ bạn một cái “Bồ điên hả?”
Tuy nhiên, khi ngẫm nghĩ lời Olivia, nó thấy quả thực phép thuật của mình dạo này chả được tích sự gì.
Olivia đã giữ lời hứa. Suốt thời gian còn lại trong tuần đã không có con cá sấu Châu Mĩ nào bên ngòai phòng ngủ chung, không có khủng long đi thẩn thơ ngòai vườn, cũng không có những chiến binh thời trung cổ vung rìu phi ngựa qua trường (một trong những biệt tài của Olivia).
Lúc này nếu May phúc mà có lại thấy cái bóng lần nữa thì chắc con chó cũng sẽ giữ riêng không nói cho ai nghe, có lo cũng không được; nên mối lo chính của Charlie bây giờ là sự có mặt đầy cản trở của cha mẹ Benjamin.
Vào thứ sáu, khi Charlie hỏi Billy có muốn về nhà nó vào cuối tuần không, câu trả lời của thằng bé khiến nó ngạc nhiên quá.
“Cô Brown bảo em chơi với Benjamin rồi” Billy hớn hở “Anh biết mà, anh ấy cô đơn vì không có con chó.”
Charlie ngạc nhiên nhưng cũng cảm thấy hơi tội lỗi, tuy việc Hạt Đậu bỏ đi không phải là lỗi của nó. Nhưng nó, Charlie đây, là bạn của Benjamin. Tại sao nó không thể bầu bạn với Benjamin chứ? Nghĩ thế nhưng nó chỉ nói, “ờ ờ, được thôi”
Về đến nhà, Charlie ngồi bên bàn nhà bếp trong khi ngọai Maisie đứng khuấy trứng trong một cái nồi.
“Một tuần lễ mới lạ đời làm sao” ngọai Maisie chép miệng “Không có chim chóc, không có mèo trên hàng rào, không có chó đeo dây dắt. Ngọai chưa bao giờ thấy bọn ấy là có gì quá quan trọng cả, nhưng không có chúng thì quả là trống vắng ghê gớm, con nhỉ. Người ta đang xôn xao là thành phố sắp chết rồi.”
“Ừmm” Charlie ậm ừ. Nó đang tự hỏi liệu mình có gặp cô bé mặc áo màu nắng nữa hay không.
“Người ta đã thúc cảnh sát phải vào cuộc; rồi cả hội bảo vệ thú vật, đám viên chức hội đồng thành phố và các thám tử tư, có trời mới biết còn những sở với ban gì bị lôi vào nữa” Ngọai Maisie bưng một dĩa trứng trộn to tú hụ đặt lên bàn và nhìn sát vào mặt Charlie. “Có chuyện gì vậy, Charlie? Một tuần tệ hại hả?”
Charlie lắc đầu, “không hẳn ạ.”
“Benjamin có đến chơi không?”
Charlie nhún vai “Billy Raven sẽ ở lại với Ben kì nghỉ cuối tuần này.”
“Ơ, bất ngờ thật” Ngọai Maisie nhướn đôi lông mày. “Ai mà ngờ chúng lại là bạn với nhau chứ.”
“Còn Fido sẽ chơi trong giàn nhạc,” Charlie rầu rĩ nói tiếp.
“Sao nghe như than thân trách phận vậy” ngọai Maisie ngồi xuống cạnh Charlie “Nào, ăn món trứng mê ly này đi. Ngon hơn cái thứ lằng nhằng, hay cái gì đó mà Bone vẫn mê mẩn”.
Charlie ráng nhếch miệng lên cười. Nó vừa định khai mạc bữa ăn của mình thì Ông cậu Paton xăm xăm đi vào và mở phăng tủ lạnh ra, tuyên bố “Ta đói ngấu. Hôm nay giỏ thức ăn sẽ không đến, họ báo cho ta vậy rồi. Hy vọng con không thất vọng chứ, Charlie?”
Thứ Sáu nào Ông cậu Paton cũng đều có một giỏ thức ăn lớn toàn sơn hào hải vị do một cửa hàng trong thành phố mang đến. Charlie chìm ngập trong những mối lo của riêng đến nỗi quên cả ngóng chờ giỏ đồ ăn.
“Có chuyện gì vậy ạ?” Nó hỏi
“Ông chủ chết đột ngột” Ông cậu Paton bảo.
Charlie buông nĩa xuống “Chỉ thế thôi ạ? Chết đột ngột? Chết khi đang ở cửa hàng ạ? Mọi người hoảng sợ lắm không ạ?”
“Ừ, phải đấy. Đấy là câu trả lời chung cho tất cả những câu của mày” Ông cậu Paton đáp.
“Tin đó cũng có đăng trên báo” ngoại Maisie nói “cùng với tin thú vật biến mất. Quả là một tuần kì dị”.
“Ông ấy chết vì cái gì ạ?” Charlie thấy mình không thể ăn nổi nữa.
“Hừ. Bí hiểm.” Ông cậu Paton mang một đĩa phó mát và bánh bích quy ra bàn. “Ta ăn món trứng của con nhé, Charlie?”
Ngoại Maisie đập vào bàn tay Ông cậu vừa giơ ra còn cách dĩa trứng của Charlie vài phân. “Thằng bé cần ăn uống cẩn thận” bà gay gắt “Charlie, ăn hết đi”.
“Thế các bác sĩ không biết sao?” Charlie đút một nĩa đầy trứng vào miệng. Nó thất lo lắng trước việc ông chủ cửa hàng chết bất đắc kì tử mà không giải thích được.
“Tim ông ta ngừng đập không rõ nguyên nhân” Ông cậu Paton nói “Một người rất cường tráng. Chăm chạy bộ. Buồn thật. Tuy vậy, may là không có gia đình. Người chủ mới đã tiếp quản công việc rồi – một người bà con, ta được báo như thế. Họ sẽ hoạt động trở lại bình thường vào tuần sau và chúng ta sẽ lại có tiệc cuối tuần.” Lần này Ông cậu Paton là người ngó mặt Charlie. “Thấy gánh nặng tuổi tác rồi sao Charlie? Mới mười hai tuổi thôi mà, làm gì ghê thế!”.
“Mười hai” Charlie lặp lại “Con được hai tuổi thì ba mất tích. Cách đây mười năm. Mười. Đó là con số may mắn, Ông cậu có nghĩ vậy không?”.
Vẻ hoan hỉ của Ông cậu Paton xẹp bớt đi. “Mười?” Ông trầm ngâm lặp lại. “Hừ, Vua Đỏ có mười người con, nhưng đó có phải may mắn hay không thì còn tùy thuộc vào quan điểm của mỗi người”.
“May mắn cái nỗi gì” Ngoại Maisie lẩm bẩm.
Nghe có tiếng ai đó leo lên bậc cấp của trước, và khi Charlie quay đầu sang nhìn ra cửa sổ, nó thấy Benjamin và Billy bước vào chiếc xe hơi của nhà Brown. Họ đi đâu vậy? Nó tự hỏi. Đi xem phim chăng? Hay đi chơi bô-ling?
Cô Amy Bone bước vào nhà, trông mệt mỏi sau một tuần chỉ tòan cân rau quả. Như thường lệ, cô tận dụng những thứ bỏ đi ở cửa hàng.
“Thơm đây” cô vui vẻ nói, đặt phịch cái bao đựng những quả thơm có gai xù xì lên bàn. “Bù cho giỏ đồ ăn không đến” Cô hôn phớt qua má Charlie. “Trông con bí xị vậy, Charlie”.
“Gặp lại mẹ vui quá” Charlie đem dĩa vừa ăn xong ra bồn rửa.
“Tuần này chúng ta sẽ gặp Benjamin thì phải?” Mẹ Charlie hỏi “Chắc hai đứa có nhiều thứ để kể cho nhau lắm nhỉ?”.
“Không ạ” Charlie quay lại, và với tấm lưng hướng về phía bồn rửa, nó nhìn ba người thân của mình một cách đầy phản kháng. Họ cũng ngước lên nhìn nó đầy chờ đợi.
“Con sẽ không gặp Benjamin tại vì nó đổ lỗi tại con mà Hạt Đậu biến mất. Fidelio sẽ chơi đàn với giàn nhạc còn Billy Raven sẽ ở với gia đình Brown. À mà ba mẹ của Benjamin bây giờ đã làm việc tại học viện Bloor rồi đấy”.
“Quái lạ” Ông cậu Paton thốt lên.
“Nhưng con không cô đơn đâu” Charlie tiếp “bởi vì con sẽ đến tiệm sách cô Ingledew. Được không ạ?
“Dĩ nhiên là được, Charlie” mẹ lẳng lặng nói.
Miệng vừa tuyên bố tiệm sách cô Ingledew là nơi thú vị nhất trên thế giới, Ông cậu Paton vừa đứng lên vỗ vai Charlie và lại bắt đầu lục lọi tủ lạnh một lần nữa.
Thế đấy.
Có điều Charlie đã không đến tiệm sách được nữa, bởi vì sáng sớm hôm sau, một tiếng gõ nhẹ trên cửa sổ đã dẫn nó vào cuộc phiêu lưu làm thay đổi cuộc đời nó hòan tòan. Và cả cuộc đời của nhiều người khác nữa.
Tiếng gõ nhẹ xảy đến lúc bình minh. Charlie tỉnh giấc. Ngay khỏang hở giữa những tấm rèm, nó thấy con bướm trắng quạt quạt qua cửa sổ. Thọat đầu Charlie tưởng là tiếng đập cánh vào kính nhẹ hều đó đã đánh thức mình dậy. Nhưng ngay sau đó lại có một cú đập nữa, lần nay đanh hơn và to hơn.
Charlie đi tới cửa sổ và nhìn ra ngòai. Cây dẻ bị bao đặc nghịt một lớp sương mù trắng trợt, khô lạnh. Trong ánh bình minh xam xám, Charlie nhận ra một dáng hình đang đứng dưới những cành cây dẻ đóng băng. Đó là một cô bé mặc áo màu vàng nắng. Cái mũ trùm đầu bị lật ra sau lưng và cô bé quấn một chiếc khăn dày sặc sỡ quanh cổ và che kín luôn miệng. Cô bé vẫy Charlie.
Charlie mở cửa sổ “Chào! Em muốn gì?”
Cô bé kéo chiếc khăn quàng đang che trước miệng xuống. “Charlie Bone, em muốn dẫn anh tới một nơi.”
Charlie nghi ngờ “Tại sao?”
“Anh không tin em sao?”
“Anh không biết em”.
Cô bé nhíu mày, “Anh sẽ phải tin tưởng em, nếu anh muốn tìm thấy bọn thú.”
“Bọn thú!” Charlie buột kêu lên. “Em biết chúng ở đâu à?”
“Suỵt!” Cô bé đặt một ngón tay lên môi “Anh có đi không?”
“Đi”.
Charlie hối hả choàng những đồ ấm nhất của mình vào: Vớ dày, áo len chui đầu cũng dày, giày ống, áo gió độn bông. Khi đi ngang qua nhà bếp, nó đã nghĩ đến việc để lại một mẩu tin nhắn, nhưng nó nên nhắn gì bậy giờ nhỉ? Tốt hơn là cứ để cho mẹ tin rằng mình đi tới tiệm sách cô Ingledew, nó quyết định vậy.
Cô bé đang đợi nó ở chân bậc cấp. Mái tóc đen bóng cuốn chặt trong chiếc khăn quàng và đôi mắt đen lấp lánh láu lỉnh. Cô chìa tay ra. “Hân hạnh gặp anh, Charlie Bone”.
Charlie bắt tay cô bé “Em là ai”.
“Naren, tiếng Trung Hoa có nghĩa là hoa hướng dương. Chúng mọc bên ngoài cửa nhà em. Đi. Bọn mình hãy đi trước khi thành phố thức giấc nào.”
Cô bé bắt đầu chạy trên đường Fibert với Charlie thở hổn hển theo sau, ngạc nhiên quá đỗi về tốc độ của đôi chân bé xíu kia, nhún nhảy trong đôi bốt đen. Đến trường Đồi Cao, Naren dừng lại chờ cho Charlie bắt kịp. Mãi cuối cùng Charlie mới thốt nên lời “Tại sao lại là anh? Tại sao em lại chọn anh đi tìm bọn thú?”
“Tại vì anh là Charlie Bone,” Naren nói “Vì vậy chọn anh là thích hợp”.
“Anh không hiểu”.
“Cha em biết anh. Cha em lo cho anh”.
“Cha em?” Tim Charlie giật đánh thót “Ông ấy cũng là cha anh không đấy?”
“Không. Không phải” Naren hạ ánh mắt xuống, “Xin lỗi, Charlie” Rồi cô bé ngước mắt lên “Nhưng cha em là một người bạn của cha anh”.
“Thật à? Cha em có biết cha anh ở đâu không?” Charlie căng người lên hy vọng.
“Không, Xin lỗi, xin lỗi. Cha em từng là bạn của cha anh. Còn bây giờ cha anh mất tích rồi”.
“Phải” Charlie thở dài.
“Cha ruột của em cũng bị mất tích. Nhưng giờ... đi thôi, còn lũ thú nữa.” Naren lại phóng đi tiếp, nhưng lần này cô bé giữ tốc độ cho bằng với Charlie, và trong khi cả hai đưá cũng chạy qua thành phố, cô bé kể cho Charlie nghe chuyện mình vẫn dõi theo Charlie và các bạn ra sao – dõi theo những đưá con của Vua Đỏ như chính cô bé. Rồi cô thổ lộ mình vẫn ao ước được noí chuyện với Charlie như thế nào. “Nhưng cha em cấm em không được tới gặp anh” cô bé buồn bã noí.
“Tại sao vậy?” Charlie hỏi “nếu cha em biết anh thì sao lại cấm? Và nếu em cũng là một đưá như bọn anh...?”
“Cha em sẽ giải thích sau,” Naren đột ngột tăng tốc. Vưà chạy cô bé vừa nói, gần như thì thào. “Thể nào ông cũng sẽ nổi tam bành với em, bởi vì ông cấm em vào thành phố”,
Charlie liếc nhìn gương mặt nhỏ nhắn đầy lo âu của cô bé, nhưng không hỏi thêm gì nưã. Naren dẫn nó qua một khu lạ hoắc của thành phố. Những hàng cây trọc lóc vươn lên bầu trời lạnh lẽo, và những ngôi nhà bị che khuất một phần sau những hàng rào cao viền sương mù như đăng ten. Naren kìm bước lại và thận trọng vòng qua tránh những vũng nước băng giá trên vỉa hè. Cô bé bất chợt quẹo trái, và Charlie, vẫn bám theo sau, thấy mình lọt vào lối đi hẹp rí xoáy xuống, xuống mãi. Nó nghe thấy có tiếng ục ục càng lúc càng dồn dập theo mỗi bước chân mình.
Naren tới một hàng rào chắn thì ngoái lại nhìn và phán “Chúng ta đi được nửa đường rồi. Nhưng giờ là lúc phải cẩn thận nhất đấy”,
“Mới nửa đường thôi à?” Charlie tuột xuống tới chỗ cô bé và chụp lấy hàng rào. Nhìn xuống, nó thấy bên dưới, phải đến gần hai chục thước, một dòng nước điên cuồng chảy xiết. Bọt trắng xóa trong mù, sôi sùng sục chồm lên những tảng đá đen thui thủi rải lô xô khắp khu vực sông sâu thẳm, và Charlie đờ ra như bị thôi miên trước cảnh cuồn cuộn đến rợn người của dòng nước.
“Sông” nó thở dốc “Anh không biết nó lại gần thành phố đến vậy”.
Naren nhoẻn một nụ cười bí hiểm, “Giờ ta phải băng qua thôi.”
“Vậy sao?” Charlie nói một cách hoài nghi.
“Nhà em bên kia sông.”
Charlie nhìn qua vực thẳm. Ở đỉnh vách đá phía đối diện là một khu rừng rậm vươn xa ngút tầm mắt. “Em sống bên đó à?” Nó hỏi mà chẳng tin tí nào.
“Người ta có thể sống trong rừng chứ bộ” nụ cười của Naren rộng thêm.
“Ừ, nhưng cánh rừng kia ấy hả?” Charlie nhìn trân trân vào thảm cây cối đằng xa. “Anh nghe nói đó là đồng hoang mà”.
“Có lẽ hoang thật” cô bé khoác lấy cánh tay nó và chỉ xuống dưới “Có cái cầu. Đi thôi.”
Charlie chồm người qua hàng rào và thấy một dải sắt rèn mỏng manh treo lơ lửng bên dòng sông, trông cũ kĩ và nguy hiểm.
“Đó á?” Nó the thé kêu lên.
“Có một cây cầu lớn ở xa đây hơn một chút” Naren nói “nhưng đông xe cộ lắm. Em thích cái này, với một cô bé mà mình chỉ vừa mới gặp. Nó men theo lộ trình nguy hiểm của cây cầu sắt. Lại gần, trông cây cầu thậm chí còn nguy hiểm hơn nữa. Tay vịn nổi hột những đụn băng nhỉ giọt còn mặt cầu thì xám xịt sương giá.
Có một tấm biển treo trên một sợi dây điện giăng ngang qua lối vào cầu, đề: NGUY HIỂM. CẦU KHÔNG AN TOÀN.
Nhưng Charlie còn lâu mới để một cô bé Trung Hoa qua mặt. Thanh sắt rỉ sét kêu lát chát trong tiếng bốt lướt qua cầu của Naren, và Charlie, khó nhọc nuốt nước miếng khan, lộp cộp bám theo sau cô bé.
Chúng băng được nửa chừng cầu thì Charlie bỗng nghĩ tới lời nó đã hứa vào đúng sinh nhật thứ muời hai. Nó đã hưá với mẹ rằng sẽ không ra những quyết định hấp tấp nữa; rằng nó sẽ dừng lại để cân nhắc những hậu quả trước khi lao vào việc gì. Ấy thế mà, nó đang ở đây, bước trên một cây cầu lắc lẻo bắc qua một con sông mà chắc chắn sẽ dìm nó mất xác nếu chẳng may rơi xuống.
Naren ngoái lại nhìn. “Sao anh dừng thế?” Cô bé gọi.
“Anh đang chiêm ngưỡng cảnh vật thôi mà,” Charllie màu mè.
“Mau lên.”
Đúng khoảnh khắc đó, một cái giằng đỡ tay vịn kim loại bỗng văng ra và rớt đánh choang xuống những tảng đá bên dưới. Toàn bộ cây cầu rung rinh, và những cột băng, như một cơn mưa, dội xuống xoáy tít vào những khoảng không.
Charlie cứng cả người.
“Không sao đâu,” cô bé mỉm cười khích lệ “Chúng ta, anh với em không nặng. Cầu sẽ giữ được chúng ta.”
Nghiến răng chặt lại, Charlie xoãi dài bước chân theo sau cô bé.
Khi đến đầu kia cây cầu, nó che giấu sự thở phào nhẹ nhõm của mình bằng cách hờ hững đu mình giữa hai cây cọc chống cuối cùng, và nhảy lên một dải đá vững chắc đang mời chào.
Naren bật cười lớn. “Leo tiếp nào,” cô bé nói.
Bầu trời đã trở nên sáng sủa hơn và lượt leo lên đỉnh vách đá xem ra không nguy hiểm bằng lượt leo xuống sườn bên kia.
Trên vách đá, chúng bị đám cây cối bạt ngàn nhưng trụi lủi vây lấy. Một con đường lờ mờ len lỏi ngang qua rừng, và Charlie, bước đằng sau Naren, nhận thấy nơi này tràn ngập âm thanh. Từ trên những cành cây trơ lá, bầy chim rìu rít dòm xuống bọn trẻ đi bên dưới; ngay cả cỏ khô cũng lao xao sức sống. Thỏ nhảy bên lề đường, một chú hươu đực hé mắt ngó ra từ phía sau cây, và rồi dần dần, những âm thanh hoang dã đã bị nhấn chìm bởi một tiếng chó sủa mừng quýt không dứt.
Vài giây sau, Hạt Đậu xông vút qua một bụi cây thấp và phóng lên người Charlie, tru tréo mừng rỡ.
“Hạt Đậu!” Charlie hét lên, ôm chầm lấy con chó vàng bự xự.
“Con đấy của anh à?” Naren hỏi.
“Không. Của bạn anh. Nhưng anh thấy mình có trách nhiệm với nó, vì Benjamin bạn anh hồi ấy đi vắng.”
“Con này là con đầu tiên đi qua cây cầu đó.” Naren nói “Rồi những con khác mới theo sau: chó, mèo, ngựa lùn, dê, thỏ, tất tần tật các loại thú. Cả nhà em nghe thấy tiếng bọn nó mới chạy vội ra vách đá xem sao. Thật là một cảnh tưọng ngoạn mục, tất cả muông thú dưới trăng, chạy qua cầu.”
“Nhưng tại sao bọn chúng lại tới đây?”
“Bởi vì ở đây an toàn hơn. Anh không thấy thế sao? Ở đằng kia, trong thành phố, có cái quỷ quái gì đó vừa mới thức dậy. Cha em sẽ giải thích cho anh.”
Charlie chưa kịp hỏi thêm gì nữa, Naren đã quay ngoắt đầu và vọt chạy huỳnh huỵch dọc theo lối mòn. Hạt Đậu nhảy chồm bên cạnh cô bé, nhưng Charlie bám theo sau với tốc độ chậm hơn. Nó ngước lên nhìn vòm lá trên đầu. Đúng là ở đây an toàn hơn. Có một sự yên lặng, một cảm giác tuyệt vời vì được bảo vệ. Nó tự hỏi người mà mình sắp gặp là loại người nào. Nếu Naren là hậu duệ của Vua Đỏ, thì rất có thể cha cô bé cũng vậy. Ông ấy là một thầy pháp? Một nhà thôi miên? Một người thú?
Một hàng rào hiện ra trong mắt, và một cái cổng để mở. Tim Charlie bắt đầu đập bưng bưng. Naren đã đứng bên tường rào, nhưng Hạt Đậu còn chờ Charlie để cả hai cùng nhau bước qua cổng, vào một khoảnh đất rộng quây kín rào.
Ở đầu kia, một ngôi nhà nhỏ kiểu quê đứng đó, hai bên đều có chuồng súc vậy xây bằng gạch đỏ. Khói lừ đừ bay lên từ ống khói của ngôi nhà và trên mái phủ đầy chim đậu. Thú vật đủ mọi dáng hình trám kím khoảnh đất trong hàng rào. Này là bầy ngưạ lùn đang gặm ăn trong những máng đá và lũ mèo ngồi trên hàng rào.
Một con chim xám vưà lướt vù ra khỏi cửa sổ vưà gọi “bớ chó!” Chắc chắn đây là con vẹt Homer của Lysander rồi.
Charlie hầu như không quan tâm để ý tới sự hiện diện của những sinh vật khác. Mối quan tâm của nó dồn cả vào dáng người đang đứng trước nhà. Một ông già và mái tóc trắng một cách sửng sốt. Bất chấp trời lạnh, ông chỉ mặc độc một chiếc áo sơ-mi kẻ ô vuông bỏ ngoài chiếc quần jeans bết bùn. Làm da nắng cháy làm nổi bật màu xanh thăm thẳm trong đôi mắt tinh anh của ông, đôi mắt đang nhìn Charlie không chớp mắt vì kinh ngạc và vì đã nhận ra.
Vì Charlie để ý thấy một cây rìu lớn treo ngang tầm ngực người đàn ông. Trông ông cũng rất sẵn sàng để sử dụng cái vật ấy.
Danh sách chương