“Cha, con đưa Charlie Bone về này,” Naren nói, hơi có vẻ lo âu.
“Ừ, thấy rồi. Naren, cha đã cấm con vào thành phố rồi cơ mà.” Giọng người đàn ông khản đi vì nén giận, và trong khi nói chuyện với con gái, ông vẫn không hề rời mắt khỏi Charlie. “Cha nghĩ là con đã băng qua cây cầu sắt, đúng không?”
“Con xin lỗi,” Naren nhìn tịt xuống hai bàn chân. “Con không nhịn được.”
“Con nhịn được chứ sao lại không,” người cha cao giọng. “Con không bao giờ học được điều đó sao? Con không bao giờ làm được cái gì an toàn và có xét đoán sao?”
“Nhưng bây giờ cha vui rồi, há?” Naren mỉm cười hy vọng. “Cha vui vì con đã đưa Charlie tới.”
Người đàn ông gừ lên một tiếng giận điên rồi vung rìu chém mạnh xuống một thân cây cụt đã lõm lam nham vài vết rìu. Bỏ mặc cái rìu ở đó, ông quay lưng lại bọn trẻ và hùng hổ đi vào nhà.
Thật bất ngờ, cánh cửa không hề đóng sầm. Tuy nhiên, Charlie không cảm thấy mình được chào đón.
“Cha em sẽ dịu lại thôi,” Naren nói chắc nịch. “Cơn giận của ông ấy cũng như lửa tắt ấy mà. Đi vào trong cho ấm nào.” Cô bé bước tới cánh cửa để mở, ra hiệu cho Charlie đi theo.
Nhưng Charlie vẫn đứng nguyên tại chỗ. Bất chấp cái lạnh, nó ngần ngại không muốn rời lũ thú. Nó bắt đầu nhận ra vài con trong đám chúng. Con vịt của Emma đang mổ bắp trong máng. Homer chễm chệ trên cọc hàng rào, và có hai con thỏ trắng lót tót nhá cỏ ở góc xa; trông chúng giống như mấy con thỏ của Olivia.
“Anh nghĩ thôi đi, để anh ra dắt Hạt Đậu về nhà luôn đây,” Charlie bảo cô bé. “Bạn bè anh sẽ tới nhận thú của họ tại anh đã biết chỗ rồi.”
“Không được,” Naren nói đanh sắc. “Không được cho ai biết về nơi này. Nếu không thì cơn giận của cha em sẽ rất khủng khiếp. Vào đi,” cô ngoắc tay. “Anh phải nói chuyện với ông đi.”
Người đàn ông tóc trắng vừa rồi có vẻ rất cục cằn, Charlie ngại ngùng không muốn nói chuyện với ông, nhưng Naren vẫy sốt sắng quá nên nó đành nhích tới gần hơn, gần hơn.
Hạt Đậu đi theo tới cửa, nhưng không theo Charlie vào nhà. Naren tháo bốt ra để ngoài một hành lang nhỏ lát đá phiến, và Charlie làm tương tự. Sau đó cô bé mở một cánh cửa thứ hai, và khi Charlie bước qua, nó thấy mình ở trong một gian bếp ấm áp, sáng sủa.
Một ấm nước đun trên giàn vỉ lò, bên dưới là những khúc gỗ cháy phừng phực. Một ngọn đèn dầu đặt trên cái bàn tròn hắt ánh sáng êm dịu, làm cho căn phòng sinh động.
Cha của Naren ngồi trong một chiếc ghế cạnh lò sưởi, trong lúc một người phụ nữ tóc xám cúi xuống bên ông, nói gì đó vẻ khẩn thiết. Bà ngước nhìn lên khi nghe tiếng bọn trẻ đi vào, và nhoẻn với Charlie một nụ cười, xóa tan mọi nỗi bất an của nó. Giống như Naren, người phụ nữ này là người Trung Hoa.
Đáng ra Charlie đã nói chuyện với người phụ nữ đó rồi, nhưng bỗng xảy ra một việc mà nó không hề được chuẩn bị trước. Nó bắt đầu để ý thấy treo kín hết bề mặt khiêm tốn của bốn bức tường là những bức hình chụp. Trông như thể có một trăm cửa sổ đang mở ra cho nó thấy những góc độ khác nhau của một rặng núi. Những dải núi tắm đẫm ánh mặt trời, những ngọn núi phủ tuyết trắng xóa hay lấp lánh dưới ánh trăng, lại thêm những cánh đồng tuyết điểm những mảng tía vằn vện và bắn lóa lên không từng hàng cờ đuôi nheo bảy sắc cầu vồng phấp phới. Bao nhiêu là đỉnh núi hùng vĩ, biết bao là những rặng núi huy hoàng.
Từ một trong những bức hình ấy, một người leo núi vẫy tay về phía máy chụp hình. Đôi kính đen của ông bị đẩy ngược lên trên chiếc mũ len màu xanh da trời và ông đang cười hết cỡ. Charlie thoảng như nghe thấy tiếng cười của ông. Có những chuyển động trong căn phòng xung quanh nó, rồi nhà bếp nghiêng ngả, chao đảo dữ dội và biến mất. Còn lại một mình, Charlie bị hút phụt về phía dãy núi xa xăm.
Không khí lạnh căm, lạnh buốt châm châm vào má Charlie và lộn lạo trong lá phổi nó. Nó đang bay trên đồng tuyết trắng đến chói cả mắt, trong khi tiếng cười của người đàn ông rõ dần lên.
Có ai đó giật lấy cánh tay Charlie. Đau điếng. Nó ước gì họ buông tay mình ra. Cố giật bung khỏi tay họ nhưng nó yếu quá, không giằng nổi. Vì vậy nó đành phó mặc cho thân mình bị giật, bị lôi, bị rung lắc và bị quát tháo, cho đến khi nó phải mở mắt ra. Và ô hay, nó đấy, đang đứng bên trong một cánh cửa nhà bếp, với một cặp mắt xanh da trời lo lắng nhìn xoáy sâu vào mắt nó, cùng một gương mặt không còn thô lỗ nữa.
Cha của Naren cầm cánh tay Charlie và ấn nó vào một chiếc ghế bên lò sưởi.
“Lúc nãy cháu tưởng mình ở trên một ngọn núi chứ,” Charlie nhìn lên dãy hình trên tường. “Ông đã ở đó, thưa ông...”
“Bác biết,” cha của Naren nói. “Cháu khéo chọn thời điểm để chu du quá đấy, Charlie Bone. Khiến chúng tôi một phen hú vía.”
“Ồ. Vậy là bác biết việc đó?” Charlie ngạc nhiên hỏi. “Ý cháu là bác biết về chuyện chu du của cháu.”
“Phải. Bác có nghe nói.”
Người phụ nữ Trung Hoa bảo, “Vui lắm được đón cháu ở đây, Charlie à.” Bà liếc nhìn người đàn ông với một cái nhíu mày, “Bác trai lo lắng cho Naren, nhưng lẽ ra ông ấy không nên giận dữ với cháu.” Lắc đầu đầy vẻ lo âu, bà kéo một chiếc ghế ra và ngồi vào bàn, “Vậy là không đúng.”
Naren quàng tay qua vai người phụ nữ, rối rít, “Xin lỗi mẹ. Lỗi tại con. Con xin lỗi mẹ.”
“Ừm... chính xác thì... bác là ai ạ?” Charlie hỏi người đàn ông.
“Tên bác là Bartholomew. Bác là con trai của Ezekiel Bloor.” Trông thấy vẻ cảnh giác trên mặt Charlie, người đàn ông vội thêm, “Đừng lo, bác là con cừu đen, à mà có lẽ là con cừu trắng(*) của gia đình thì đúng hơn. Bác không gặp cha mình, hay cả con trai mình, suốt nhiều năm rồi. Họ bị đẩy đi quá xa khỏi bác như là mặt trăng xa trái đất vậy.”
“Nhưng tại sao...” Charlie nhìn quanh phòng. “Tại sao bác lại ở đây?”
“À,” ông Bartholomew đi ra cửa sổ và nhìn chăm chú ra những vị khách thú của mình.
“Ba sẽ nói cho anh biết mà,” Naren bảo. “Phải không cha? Cha phải nói cho Charlie biết nhe.”
Ông Bartholomew sải bước về lại chỗ hai đứa, “Ừ.” Giọng ông nghiêm trang và có chút gì đó dằn vặt. “Bác phải nói.” Rồi ông kéo một chiếc ghế sát lại gần ghế Charlie và bắt đầu nói.
Trong khi Charlie lắng nghe, mẹ của Naren đem cho nó một bát trà bốc khói mê ly, và sau đó là một cái bánh nướng ngọt lịm, giòn lốp cốp. Charlie chưa bao giờ được nếm thứ gì ngon lành đến vậy, nhưng nó chỉ gật đầu cảm ơn, vì không thể nào dứt được tâm trí ra khỏi câu chuyện khó tin của ông Bartholomew.
(*) Black sheep: ý là con chiên ghẻ, đứa con hư hỏng, bị gia đình chối bỏ. Ông Bartholomew chơi chữ, sửa lại là white sheep (con cừu trắng), ý nói là ta không độc ác như gia đình mình. (ND)
Chuyện bắt đầu bằng một đám cưới. Bartholomew Bloor cưới Mary Chance vào một sáng mùa thu mưa dầm. Không một ai vui mừng, ngoại trừ cô dâu và chú rể, họ yêu nhau đến nỗi hầu như không nhận ra thời tiết thế nào. Lão Ezekiel Bloor và những người họ hàng Yewbeam của lão khinh miệt cô dâu, một vũ công xinh đẹp nhưng nghèo kiết xác. Còn cha mẹ của Mary thì lo lắng cho con gái mình bị cưới vào một gia đình quái gở và ghẻ lạnh, tách biệt xã hội như vậy.
“Họ bỏ mặc bọn bác một thời gian,” ông Bartholomew nói với một tiếng thở dài. “Thế rồi bác nghe nói về chuyến thám hiểm. Mẹ của bác vốn vẫn hay cho bác cùng đi thu thập các loài thực vật hiếm ở dãy núi Bavaria. Kể từ đó bác say mê núi non. Sau khi mẹ chết, bác dành hết những ngày nghỉ của mình để leo núi với bạn bè. Bọn bác đã leo núi Snowdonia, dãy núi Alps, rặng Pyrenees, nhưng giấc mơ của bác luôn luôn là chinh phục dãy Himalayas(*).”
“Một ngày nọ bác nhận được một lá thư từ một trong những bạn leo núi của bác. Harold, con trai bác, lúc đó 8 tuổi. Nó rất nghiêm và lù đù. Nó không chia sẻ tình yêu đi đó đây với bác. Nó ghét phải ở lều, ghét đi bộ, thậm chí ghét cả đi cắm trại,” ông Bartholomew buột cười buồn bã. “Thử tưởng tượng một đứa trẻ không thích đi cắm trại thì thế nào.”
Naren chặc lưỡi, “Tưởng tượng coi!”
“Lá thư thông báo cho bác biết về một chuyến thám hiểm,” ông Bartholomew tiếp. “Có một suất dành cho bác. Một tháng nữa thì họ sẽ lên đường tới dãy Himalayas(*).”
Charlie nhai bánh nướng, cố hết sức khẽ khàng – và chờ.
Giọng ông Bartholomew ngập ngừng rồi tiếp tục, “Mary bảo với bác đó là một cơ hội cả đời mới có, và bác sẽ mãi hối tiếc nếu bác không đi. Vì vậy mà bác đã đi.” Ông đứng lên và bắt đầu bước tới bước lui trong phòng. “Tất cả mọi việc đều suôn sẻ cho tới một đêm bão tố. Cơn bão ác nghiệt và khủng khiếp. Một trận tuyết lở đã giết chết hai người trong đoàn, còn bác thì bị quét vào một hẻm núi. Suốt hai ngày bác nằm kẹt ở đó, không thể cụ cựa. Một người đàn ông thuộc một bộ lạc không ai biết với toàn những con người lạ lùng đã cứu bác.”
Ông Bartholomew trở về và ngồi lại xuống ghế. Ông kể cho Charlie nghe bộ lạc huyền bí đó đã chăm sóc ông như thế nào. Cả hai chân ông đều gãy và vết thương dài trên đầu khiến ông đau đớn triền miên, nhưng đến cuối năm đó thì ông đủ khỏe để đi được. Một thanh niên trong bộ lạc đã đưa ông đến con đường núi dẫn ra khỏi thung lũng, và sau nhiều tuần, ông đến được một thị trấn có điện thoại.
“Bác phấn khích vô cùng, nôn nóng muốn nói chuyện với Mary, để báo cho cô ấy biết là bác còn sống và sắp trở về nhà,” ông Bartholomew lắc đầu. Một tay ông vò vò khắp mái tóc trắng, tay kia che mắt.
Mới đầu Charlie sợ không dám hỏi câu nào. Nó nhìn Naren và mẹ cô bé, nhưng dường như họ không sao nói được, ông Bartholomew đang quá trầm uất. Cuối cùng, nỗi tò mò của Charlie thắng thế và nó đánh liều hỏi. “Thế chuyện gì đã xảy ra ạ?”
Ông Bartholomew nhìn lên, “Bà nội của cháu, Grizelda Bone, đã trả lời điện thoại. Bà ta đang có mặt ở nhà bác để chuẩn bị bán căn nhà. Bà ta bảo với bác là tất cả mọi người đều tin rằng bác đã chết trong trận lở tuyết ấy rồi. Sau khi Mary nghe tin, cô ấy đã đi vào một nhà hát vắng tanh và múa, múa, múa một mình cho đến chết.” Ông Bartholomew hít một hơi thật sâu. “Con trai bác đang sống trong học viện Bloor, dưới sự chăm sóc của Ezekiel và Grizelda. Và rõ ràng là nó rất hạnh phúc.”
Charlie sốc đến nỗi không nói nên lời.
“Vậy là bác không về nhà nữa,” ông Bartholomew tiếp. “Bác trở thành một nhà thám hiểm. Bác cứ đi, đi mãi cho đến khi tới được Trung Quốc, sống ở đó nhiều năm thì bác gặp người vợ thứ hai của mình, bà Meng đây.” Ông nhìn sang người phụ nữ tóc xám, bà mỉm cười với ông. “Một ngày nọ, sau một trận lụt kinh hoàng, có một bông hoa từ mặt trời bước vào nhà của bác. Cha mẹ của nó đã bị nước cuốn trôi. Lúc đó nó bốn tuổi và tự xưng tên là Naren – hoa hướng dương.”
“Phải, là em đó!” Naren hét lên. “Họ đã nhận em làm con nuôi, và giờ thì em ở đây.”
Charlie quay qua nhìn cô bé và cười toét. “Nhưng tại sao tất cả lại trở về đây?” Nó hỏi.
“À,” ông Bartholomew đi ra cửa sổ. “Đó là một điều bác không thể giải thích được. Bác cần phải ở gần nơi mà những người con của Vua Đỏ được sinh ra. Từ phía bên này vực sông, chúng ta có thể nhìn thấy lâu đài, hoặc những gì còn sót lại của nó. Gần, nhưng lại chắc chắn thoát được sự tấn công của thành phố và của hai gia đình ác độc kia,” ông ngừng lời một giây, “và thoát khỏi thứ mà bác đã nghe nói tới, khi bác đang ở Ý. Một thứ người ta gọi là ‘cái bóng’. Đôi lúc bác vẫn mơ về nó.”
Một luồng gió buốt giá bất giác lùa vào căn phòng ấm cúng, tựa như một cánh cửa vô hình vừa rớt khỏi cửa sổ. Charlie rùng mình. “Một cái bóng đứng đằng sau nhà vua trong tấm chân dung ngài,” nó nói. Ông Bartholomew gật đầu. “Vậy là cháu đã nhìn thấy nó rồi.”
“Tụi cháu nghĩ,” Charlie lưỡng lự, “hình như hắn đã trở lại. Cái bóng đã xê dời, bác biết không, và chúng cháu nghĩ... à, thật ra là một con chuột đã bảo với bạn cháu, bạn Billy ấy, (ông Bartholomew không hề chớp mắt) rằng trái đất rùng mình. Và rồi một con chó...” Charlie nhắc lại câu chuyện của May Phúc về cái bóng biến thành một người đàn ông.
Mẹ của Naren bụm một bàn tay lên miệng, còn ông Bartholomew nhắm mắt lại, lẩn tránh một nỗi kinh hoàng không thể tưởng tượng được.
“Người ta nói đó là Borlath,” Charlie tiếp, “là tổ tiên của ông... cũng là của cháu, cháu nghĩ vậy, vì chúng ta kiểu như cũng họ hàng với nhau.”
“Đó không phải là Borlath,” nhà thám hiểm nói, vẻ u ám. “Cái bóng của nhà vua là người đàn ông đã làm ly tán gia đình của Vua Đỏ. Bác quên mất tên hắn rồi.”
“Cháu chưa bao giờ nghe nói đến ông ta cả,” Charlie nói. “Ông ta không có trong những sách lịch sử của Ông cậu cháu.”
“Sách lịch sử thường được viết ra từ một quan điểm nhất định,” ông Bartholomew nói một cách bực bội. “Chúng bị chỉnh sửa, bị thêm thắt, cắt xén những tình tiết. Chỉ những người du hành mới có thể tìm ra sự thật, Charlie à, bởi vì sự thật ở trong đầu con người và ở trong trái tim họ. Đừng có lúc nào cũng đem đặt lòng tin của mình vào những lời mà cháu thấy trên giấy nhé.”
“Cháu nghĩ về mặt nào đó mình cũng là một người du hành,” Charlie nói.
“Đương nhiên. Và ai mà biết, cháu có thể khám phá nhiều điều về Vua Đỏ hơn những gì bác đã thấy suốt ngần ấy năm rong ruổi của mình.”
“Phải chi cháu có thể đi qua cái bóng đó,” Charlie suỵt soạt.
“Ha! Chúng ta trở lại chuyện cái bóng sau.” Ông Bartholomew đột ngột đứng lên và dí sát vào nhìn mặt Charlie.
Charlie đành nuốt ực những câu hỏi mình định hỏi. Thay vào đó, nó nói về cuộc sống của nó kể từ khi ba nó mất tích, về Học viện Bloor và về những đứa trẻ được ban phép thuật đã trở thành bạn của nó.
“Rồi cháu sẽ tìm được ba cháu, Charlie,” ông Bartholomew nói đầy thuyết phục, “đó là nhờ tính cách của cháu, và nhờ sự trung thành mà cháu đã truyền cho mọi người. Lyell là một người phi thường. Thật kỳ diệu là chú ấy vẫn giữ được cho mình cao quý khi bị vây quanh bởi toàn đồ rắn độc như vậy. Bác đáng tuổi cha chú ấy, nhưng sau vài tuần ngắn ngủi chúng ta đã trở thành bạn thân của nhau. Lúc cháu được một tuổi, Charlie, bác có ghé về thăm gia đình. Nhưng họ chẳng muốn dính líu gì tới bác cả. Thằng con bác hầu như không công nhận bác. Bác nghĩ rằng, về mặt nào đó, Lyell đã trở thành đứa con trai đã mất của bác. Bác đưa chú ấy đi leo núi cùng với bác...” Giọng ông Bartholomew trượt đi, rồi bỗng nhún vai một cái thật mạnh, ông nói, “Đến giờ cháu phải về nhà rồi, Charlie. Nhưng không phải theo đường mà cháu đã đến.”
“Để con...?” Naren mở lời.
“Không,” người cha nghiêm khác. “Con phải ở lại đây với mẹ. Và con sẽ không bao giờ được băng qua cây cầu đó nữa.”
Naren cười lỏn lẻn với Charlie, “Nhưng còn những con thú, cha ơi. Charlie phải đem chúng về cùng với anh ấy chứ.”
“Không thể mang tất cả thú được,” người mẹ cười lớn.
“Chỉ những con là thú của các bạn cháu thôi,” Charlie nói. “Mọi người có thấy con chuột cảnh nào không ạ?”
“Cả đống!” Naren chạy ra hành lang và vừa mặc áo khoác đi bốt vào vừa nói to, “Trong chuồng đầy nhóc bọn chúng. Đi ra xem này.”
Vội vội vàng vàng mặc hết mớ đồ lạnh của mình vô, Charlie theo Naren tới một chuồng gia súc lớn ở góc bên phải ngôi nhà. Khi nó bước vào trong chuồng, một đội quân gặm nhấm bé tí vội chạy láo nháo qua sàn đất, phóng lên đống cỏ khô hoặc chui rúc dưới những khúc gỗ.
“Làm sao anh có thể phân biệt được đây?” Charlie rên rẩm. “Bạn của anh mất hơn hai mươi con.”
“Lại có người biết được con nào với con nào sao?” Naren hỏi.
“Gabriel biết tỉ mỉ từng con chuột của anh ấy,” Charlie nói với một cái thở dài.
Nghe vậy Naren khoái chí bật cười như nắc nẻ, Charlie cũng bật cười theo khúc khích.
Phải mất gần một tiếng đồng hồ mới bắt xong hai mươi lăm con chuột cảnh có vẻ hơi hơi nhận ra được, hai con thỏ trắng, một con vịt, một con vẹt xám, và một con trăn xanh da trời. Kiếm được một đống thùng với hòm, cùng một cái lồng cho con trăn. “Đừng có ham cái chuyện để con đó quấn quanh cổ bác trong lúc bác lái xe đấy nhé,” ông Bartholomew bảo, khi ông giúp Charlie dụ con trăn vào trong lồng. Nhưng con trăn đó là một sinh vật hòa nhã và chắc hẳn sẽ không bao giờ làm hại một người bạn. Không ai trong gia đình họ ngạc nhiên khi biết nó đã một ngàn tuổi. Trong những chuyến đi chu du thiên hạ của mình, ông Bartholomew từng gặp những sinh vật còn nhiều tuổi hơn thế.
Một chiếc xe tải nhẹ méo mó đậu ngoài sân, đằng sau ngôi nhà, và bọn thú nhốt trong thùng xe được cẩn thận chất vào sau xe. Charlie ngồi vào chỗ bên cạnh ông Bartholomew, Homer đậu trên lồng con trăn và Hạt Đậu ngồi trên đùi Charlie.
Chiếc xe tải rồ lên và lăn bánh qua sân. Ngay lập tức, Naren chạy theo bên hông xe. “Đừng đóng... tối nay nhé,” cô bé nói với theo.
“Cái gì?” Charlie ngó qua cửa sổ.
“Đưa cho em một thứ gì đó của anh đi,” Naren nói to.
Hầu như không suy nghĩ, Charlie lột chiếc bao tay của mình và thảy qua cửa sổ. Chiêc xe tải lắc lư ra khỏi sân và đi vào một con đường gồ ghề. Charlie vặn người trên ghế và nhìn qua cửa sổ sau. Nó thấy Naren nhặt bao tay lên và vui sướng vẫy vẫy chiếc bao tay. Bà Meng đứng đằng sau cô, do dự đưa một tay lên. Chiếc xe tải cua gắt vào một ngõ quẹo và hai bóng hình biến mất khỏi tầm nhìn.
“Tạo sao bạn ấy lại muốn có một đồ vật của cháu?” Charlie hỏi ông Bartholomew.
“Nó muốn giữ liên lạc đó mà,” ông Bartholomew mỉm cười một cách bí hiểm với Charlie.
“Nhưng tại sao lại là bao tay? Và cháu tuyệt đối không được đóng cái gì tối nay?”
“Rèm cửa, Charlie. Hãy để ánh trăng chiếu vào.”
“Nhưng mà...”
“Hãy nhìn qua phải,” ông Bartholomew ra lệnh.
Vâng lời, Charlie nhìn băng qua ông Bartholomew. Mới đầu, nó chẳng thấy gì ngoài cây cối, nhưng rồi, ở bên kia đèo, một tòa tháp đỏ quạch hình vuông lọt vào tầm nhìn.
“Lâu đài Đỏ,” Charlie thốt lên.
“Đúng vậy,” ông Bartholomew đồng ý.
“Có một phần của bức tường kìa,” Charlie la lên.
Chiếc xe tải chậm lại để Charlie có thể thấy đống đổ nát của bức tường khổng lồ, xây ở ngay trên mép đèo bên kia. Những mảng tường hiện ra ít nhất cả dặm, sau đó, từ từ, những phiến đá khổng lồ bị mất hút vào biển cây cối bạt ngàn.
“Cháu không ngờ nó lại đồ sộ đến vậy,” Charlie thở hốc.
“Rộng mênh mông ấy chứ,” ông Bartholomew nói. Giọng ông nhẹ đi. “Và bác tin rằng nhà vua, hoặc vong linh của ngài, vẫn còn ở đó. Bây giờ ngài ẩn dật, nhưng có lẽ chẳng bao lâu nữa đâu, ngài sẽ hiển hiện, nhất là khi cái bóng ấy đã trở lại.”
“Hoàng hậu cũng ở đó,” Charlie nói.
Ông Bartholomew nhíu mày quay qua nó, vẻ thắc mắc, và Charlie kể cho nhà thám hiểm nghe về con ngựa trắng đã đưa nó và Billy đến lâu đài Gương.
“Hoàng hậu,” đôi mắt xanh thẳm của ông Bartholomew nhấp nháy. “Ôi thật tuyệt vời.”
Họ đi tiếp trong yên lặng được một lúc thì ông Bartholomew nói nghiêm nghị. “Charlie, điều quan trọng là không được để cho ai biết về bác và gia đình bác. Hãy hứa không được nói cho một linh hồn nào về nơi bác sống nghe chưa, hoặc là nơi cháu đã tìm thấy những con thú.”
Charlie nghĩ tới bạn bè nó, và Ông cậu Paton. “Cháu hứa,” nó ngần ngừ.
Đi một dặm nữa thì họ rời lối mòn xuyên đồng hoang, rẽ vào một con đường cuối cùng đưa họ tới một cây cầu rộng bằng đá. Charlie nghĩ tốt nhất nên đưa tất cả bọn thú tới quán Cà Phê Thú Kiểng để cho những chủ nhân của chúng tới nhận chúng về. Nó chỉ đường cho ông Bartholomew tới đầu hẻm Con Ếch, nhưng nhà thám hiểm chắc sẽ không chịu rời chiếc xe tải của mình.
Trước khi Charlie ra khỏi xe, ông Bartholomew nhét cái gì đó vào túi áo nó. “Bác không có tấm hình nào chụp cha cháu cả,” ông giải thích. “Nhưng cháu hãy cầm lấy cái này. Bác luôn luôn giữ nó và bất giác bác nghĩ rằng nó có thể giúp cháu, Charlie à.”
“Cảm ơn bác.”
“Giờ thì xuống xe nhé. Bác không muốn bị ai thấy bác cả.”
Với cái lồng trăn treo trên một cánh tay, một thùng đựng thỏ với chuột cảnh ở bên cánh tay kia, Charlie hét lên chào tạm biệt, rồi chiếc xe tải phóng đi khỏi. Sau đó nó lặc lè đi xuống hẻm Con Ếch với Hạt Đậu chạy lon ton đằng trước và con vịt Nancy lạch bạch ngoan ngoãn đi đằng sau. Tuy nhiên, con vẹt thông thái cứ biến biệt dạng một chốc thì lại réo lên những lời thô lỗ từ cột điện hay từ bậu cửa sổ.
Charlie đi gần đến quán Cà Phê Thú Kiểng thì nhận thấy có những bước chân trên con đường sỏi đằng sau mình.
“Đứng nguyên tại chỗ, Charlie Bone,” một giọng nói.
Charlie dừng lại và ngó quanh. Dorcas Loom và hai thằng anh to xác của con nhỏ đang khệnh khạng đi về phía Charlie. Bước giữa hai thằng nhà Loom là Joshua Tilpin.
“Chó của bọn tao đâu, Charlie Bone?” Albert Alfred, thằng con nhà Loom xấu nhất và cao nhất, hỏi.
“Ủa. Làm sao mày tìm được con chó của mày và tất cả thú cưng của bạn mày thế này?” Alfred, thằng lùn hơn và bè bè hơn, chất vấn.
“Mày đã làm gì với tất cả bọn thú kia rồi hả, Charlie?” Joshua nói với bộ mặt nhăn nhở. “Nói! Mau!”
“Không làm gì cả,” Charlie đáp. “Tôi chỉ tình cờ tìm thấy những con này,” nó liếc nhìn Nancy, đang núc ních đi tới bên cạnh nó.
“Ô, chỉ tình cờ tìm thấy chúng thôi à?” Dorcas móc máy.
Một tiếng gừ rồ rồ trong cổ họng Hạt Đậu, và Homer rống lên, “Chiến đấu!”
“Chặn cái đồ liến thoắng đó lại,” Albert rít chịt. “Nếu mày không khai cho chúng tao biết chó của chúng tao ở đâu, tao sẽ bắt chó của mày. Bọn tao sẽ bắt cả đám luôn, trừ khi mày nói ra.”
“Nói mau,” Alfred ra lệnh, “không thì...”
Bốn đứa chúng nó bắt đầu tiến lại gần.
“Ừ, thấy rồi. Naren, cha đã cấm con vào thành phố rồi cơ mà.” Giọng người đàn ông khản đi vì nén giận, và trong khi nói chuyện với con gái, ông vẫn không hề rời mắt khỏi Charlie. “Cha nghĩ là con đã băng qua cây cầu sắt, đúng không?”
“Con xin lỗi,” Naren nhìn tịt xuống hai bàn chân. “Con không nhịn được.”
“Con nhịn được chứ sao lại không,” người cha cao giọng. “Con không bao giờ học được điều đó sao? Con không bao giờ làm được cái gì an toàn và có xét đoán sao?”
“Nhưng bây giờ cha vui rồi, há?” Naren mỉm cười hy vọng. “Cha vui vì con đã đưa Charlie tới.”
Người đàn ông gừ lên một tiếng giận điên rồi vung rìu chém mạnh xuống một thân cây cụt đã lõm lam nham vài vết rìu. Bỏ mặc cái rìu ở đó, ông quay lưng lại bọn trẻ và hùng hổ đi vào nhà.
Thật bất ngờ, cánh cửa không hề đóng sầm. Tuy nhiên, Charlie không cảm thấy mình được chào đón.
“Cha em sẽ dịu lại thôi,” Naren nói chắc nịch. “Cơn giận của ông ấy cũng như lửa tắt ấy mà. Đi vào trong cho ấm nào.” Cô bé bước tới cánh cửa để mở, ra hiệu cho Charlie đi theo.
Nhưng Charlie vẫn đứng nguyên tại chỗ. Bất chấp cái lạnh, nó ngần ngại không muốn rời lũ thú. Nó bắt đầu nhận ra vài con trong đám chúng. Con vịt của Emma đang mổ bắp trong máng. Homer chễm chệ trên cọc hàng rào, và có hai con thỏ trắng lót tót nhá cỏ ở góc xa; trông chúng giống như mấy con thỏ của Olivia.
“Anh nghĩ thôi đi, để anh ra dắt Hạt Đậu về nhà luôn đây,” Charlie bảo cô bé. “Bạn bè anh sẽ tới nhận thú của họ tại anh đã biết chỗ rồi.”
“Không được,” Naren nói đanh sắc. “Không được cho ai biết về nơi này. Nếu không thì cơn giận của cha em sẽ rất khủng khiếp. Vào đi,” cô ngoắc tay. “Anh phải nói chuyện với ông đi.”
Người đàn ông tóc trắng vừa rồi có vẻ rất cục cằn, Charlie ngại ngùng không muốn nói chuyện với ông, nhưng Naren vẫy sốt sắng quá nên nó đành nhích tới gần hơn, gần hơn.
Hạt Đậu đi theo tới cửa, nhưng không theo Charlie vào nhà. Naren tháo bốt ra để ngoài một hành lang nhỏ lát đá phiến, và Charlie làm tương tự. Sau đó cô bé mở một cánh cửa thứ hai, và khi Charlie bước qua, nó thấy mình ở trong một gian bếp ấm áp, sáng sủa.
Một ấm nước đun trên giàn vỉ lò, bên dưới là những khúc gỗ cháy phừng phực. Một ngọn đèn dầu đặt trên cái bàn tròn hắt ánh sáng êm dịu, làm cho căn phòng sinh động.
Cha của Naren ngồi trong một chiếc ghế cạnh lò sưởi, trong lúc một người phụ nữ tóc xám cúi xuống bên ông, nói gì đó vẻ khẩn thiết. Bà ngước nhìn lên khi nghe tiếng bọn trẻ đi vào, và nhoẻn với Charlie một nụ cười, xóa tan mọi nỗi bất an của nó. Giống như Naren, người phụ nữ này là người Trung Hoa.
Đáng ra Charlie đã nói chuyện với người phụ nữ đó rồi, nhưng bỗng xảy ra một việc mà nó không hề được chuẩn bị trước. Nó bắt đầu để ý thấy treo kín hết bề mặt khiêm tốn của bốn bức tường là những bức hình chụp. Trông như thể có một trăm cửa sổ đang mở ra cho nó thấy những góc độ khác nhau của một rặng núi. Những dải núi tắm đẫm ánh mặt trời, những ngọn núi phủ tuyết trắng xóa hay lấp lánh dưới ánh trăng, lại thêm những cánh đồng tuyết điểm những mảng tía vằn vện và bắn lóa lên không từng hàng cờ đuôi nheo bảy sắc cầu vồng phấp phới. Bao nhiêu là đỉnh núi hùng vĩ, biết bao là những rặng núi huy hoàng.
Từ một trong những bức hình ấy, một người leo núi vẫy tay về phía máy chụp hình. Đôi kính đen của ông bị đẩy ngược lên trên chiếc mũ len màu xanh da trời và ông đang cười hết cỡ. Charlie thoảng như nghe thấy tiếng cười của ông. Có những chuyển động trong căn phòng xung quanh nó, rồi nhà bếp nghiêng ngả, chao đảo dữ dội và biến mất. Còn lại một mình, Charlie bị hút phụt về phía dãy núi xa xăm.
Không khí lạnh căm, lạnh buốt châm châm vào má Charlie và lộn lạo trong lá phổi nó. Nó đang bay trên đồng tuyết trắng đến chói cả mắt, trong khi tiếng cười của người đàn ông rõ dần lên.
Có ai đó giật lấy cánh tay Charlie. Đau điếng. Nó ước gì họ buông tay mình ra. Cố giật bung khỏi tay họ nhưng nó yếu quá, không giằng nổi. Vì vậy nó đành phó mặc cho thân mình bị giật, bị lôi, bị rung lắc và bị quát tháo, cho đến khi nó phải mở mắt ra. Và ô hay, nó đấy, đang đứng bên trong một cánh cửa nhà bếp, với một cặp mắt xanh da trời lo lắng nhìn xoáy sâu vào mắt nó, cùng một gương mặt không còn thô lỗ nữa.
Cha của Naren cầm cánh tay Charlie và ấn nó vào một chiếc ghế bên lò sưởi.
“Lúc nãy cháu tưởng mình ở trên một ngọn núi chứ,” Charlie nhìn lên dãy hình trên tường. “Ông đã ở đó, thưa ông...”
“Bác biết,” cha của Naren nói. “Cháu khéo chọn thời điểm để chu du quá đấy, Charlie Bone. Khiến chúng tôi một phen hú vía.”
“Ồ. Vậy là bác biết việc đó?” Charlie ngạc nhiên hỏi. “Ý cháu là bác biết về chuyện chu du của cháu.”
“Phải. Bác có nghe nói.”
Người phụ nữ Trung Hoa bảo, “Vui lắm được đón cháu ở đây, Charlie à.” Bà liếc nhìn người đàn ông với một cái nhíu mày, “Bác trai lo lắng cho Naren, nhưng lẽ ra ông ấy không nên giận dữ với cháu.” Lắc đầu đầy vẻ lo âu, bà kéo một chiếc ghế ra và ngồi vào bàn, “Vậy là không đúng.”
Naren quàng tay qua vai người phụ nữ, rối rít, “Xin lỗi mẹ. Lỗi tại con. Con xin lỗi mẹ.”
“Ừm... chính xác thì... bác là ai ạ?” Charlie hỏi người đàn ông.
“Tên bác là Bartholomew. Bác là con trai của Ezekiel Bloor.” Trông thấy vẻ cảnh giác trên mặt Charlie, người đàn ông vội thêm, “Đừng lo, bác là con cừu đen, à mà có lẽ là con cừu trắng(*) của gia đình thì đúng hơn. Bác không gặp cha mình, hay cả con trai mình, suốt nhiều năm rồi. Họ bị đẩy đi quá xa khỏi bác như là mặt trăng xa trái đất vậy.”
“Nhưng tại sao...” Charlie nhìn quanh phòng. “Tại sao bác lại ở đây?”
“À,” ông Bartholomew đi ra cửa sổ và nhìn chăm chú ra những vị khách thú của mình.
“Ba sẽ nói cho anh biết mà,” Naren bảo. “Phải không cha? Cha phải nói cho Charlie biết nhe.”
Ông Bartholomew sải bước về lại chỗ hai đứa, “Ừ.” Giọng ông nghiêm trang và có chút gì đó dằn vặt. “Bác phải nói.” Rồi ông kéo một chiếc ghế sát lại gần ghế Charlie và bắt đầu nói.
Trong khi Charlie lắng nghe, mẹ của Naren đem cho nó một bát trà bốc khói mê ly, và sau đó là một cái bánh nướng ngọt lịm, giòn lốp cốp. Charlie chưa bao giờ được nếm thứ gì ngon lành đến vậy, nhưng nó chỉ gật đầu cảm ơn, vì không thể nào dứt được tâm trí ra khỏi câu chuyện khó tin của ông Bartholomew.
(*) Black sheep: ý là con chiên ghẻ, đứa con hư hỏng, bị gia đình chối bỏ. Ông Bartholomew chơi chữ, sửa lại là white sheep (con cừu trắng), ý nói là ta không độc ác như gia đình mình. (ND)
Chuyện bắt đầu bằng một đám cưới. Bartholomew Bloor cưới Mary Chance vào một sáng mùa thu mưa dầm. Không một ai vui mừng, ngoại trừ cô dâu và chú rể, họ yêu nhau đến nỗi hầu như không nhận ra thời tiết thế nào. Lão Ezekiel Bloor và những người họ hàng Yewbeam của lão khinh miệt cô dâu, một vũ công xinh đẹp nhưng nghèo kiết xác. Còn cha mẹ của Mary thì lo lắng cho con gái mình bị cưới vào một gia đình quái gở và ghẻ lạnh, tách biệt xã hội như vậy.
“Họ bỏ mặc bọn bác một thời gian,” ông Bartholomew nói với một tiếng thở dài. “Thế rồi bác nghe nói về chuyến thám hiểm. Mẹ của bác vốn vẫn hay cho bác cùng đi thu thập các loài thực vật hiếm ở dãy núi Bavaria. Kể từ đó bác say mê núi non. Sau khi mẹ chết, bác dành hết những ngày nghỉ của mình để leo núi với bạn bè. Bọn bác đã leo núi Snowdonia, dãy núi Alps, rặng Pyrenees, nhưng giấc mơ của bác luôn luôn là chinh phục dãy Himalayas(*).”
“Một ngày nọ bác nhận được một lá thư từ một trong những bạn leo núi của bác. Harold, con trai bác, lúc đó 8 tuổi. Nó rất nghiêm và lù đù. Nó không chia sẻ tình yêu đi đó đây với bác. Nó ghét phải ở lều, ghét đi bộ, thậm chí ghét cả đi cắm trại,” ông Bartholomew buột cười buồn bã. “Thử tưởng tượng một đứa trẻ không thích đi cắm trại thì thế nào.”
Naren chặc lưỡi, “Tưởng tượng coi!”
“Lá thư thông báo cho bác biết về một chuyến thám hiểm,” ông Bartholomew tiếp. “Có một suất dành cho bác. Một tháng nữa thì họ sẽ lên đường tới dãy Himalayas(*).”
Charlie nhai bánh nướng, cố hết sức khẽ khàng – và chờ.
Giọng ông Bartholomew ngập ngừng rồi tiếp tục, “Mary bảo với bác đó là một cơ hội cả đời mới có, và bác sẽ mãi hối tiếc nếu bác không đi. Vì vậy mà bác đã đi.” Ông đứng lên và bắt đầu bước tới bước lui trong phòng. “Tất cả mọi việc đều suôn sẻ cho tới một đêm bão tố. Cơn bão ác nghiệt và khủng khiếp. Một trận tuyết lở đã giết chết hai người trong đoàn, còn bác thì bị quét vào một hẻm núi. Suốt hai ngày bác nằm kẹt ở đó, không thể cụ cựa. Một người đàn ông thuộc một bộ lạc không ai biết với toàn những con người lạ lùng đã cứu bác.”
Ông Bartholomew trở về và ngồi lại xuống ghế. Ông kể cho Charlie nghe bộ lạc huyền bí đó đã chăm sóc ông như thế nào. Cả hai chân ông đều gãy và vết thương dài trên đầu khiến ông đau đớn triền miên, nhưng đến cuối năm đó thì ông đủ khỏe để đi được. Một thanh niên trong bộ lạc đã đưa ông đến con đường núi dẫn ra khỏi thung lũng, và sau nhiều tuần, ông đến được một thị trấn có điện thoại.
“Bác phấn khích vô cùng, nôn nóng muốn nói chuyện với Mary, để báo cho cô ấy biết là bác còn sống và sắp trở về nhà,” ông Bartholomew lắc đầu. Một tay ông vò vò khắp mái tóc trắng, tay kia che mắt.
Mới đầu Charlie sợ không dám hỏi câu nào. Nó nhìn Naren và mẹ cô bé, nhưng dường như họ không sao nói được, ông Bartholomew đang quá trầm uất. Cuối cùng, nỗi tò mò của Charlie thắng thế và nó đánh liều hỏi. “Thế chuyện gì đã xảy ra ạ?”
Ông Bartholomew nhìn lên, “Bà nội của cháu, Grizelda Bone, đã trả lời điện thoại. Bà ta đang có mặt ở nhà bác để chuẩn bị bán căn nhà. Bà ta bảo với bác là tất cả mọi người đều tin rằng bác đã chết trong trận lở tuyết ấy rồi. Sau khi Mary nghe tin, cô ấy đã đi vào một nhà hát vắng tanh và múa, múa, múa một mình cho đến chết.” Ông Bartholomew hít một hơi thật sâu. “Con trai bác đang sống trong học viện Bloor, dưới sự chăm sóc của Ezekiel và Grizelda. Và rõ ràng là nó rất hạnh phúc.”
Charlie sốc đến nỗi không nói nên lời.
“Vậy là bác không về nhà nữa,” ông Bartholomew tiếp. “Bác trở thành một nhà thám hiểm. Bác cứ đi, đi mãi cho đến khi tới được Trung Quốc, sống ở đó nhiều năm thì bác gặp người vợ thứ hai của mình, bà Meng đây.” Ông nhìn sang người phụ nữ tóc xám, bà mỉm cười với ông. “Một ngày nọ, sau một trận lụt kinh hoàng, có một bông hoa từ mặt trời bước vào nhà của bác. Cha mẹ của nó đã bị nước cuốn trôi. Lúc đó nó bốn tuổi và tự xưng tên là Naren – hoa hướng dương.”
“Phải, là em đó!” Naren hét lên. “Họ đã nhận em làm con nuôi, và giờ thì em ở đây.”
Charlie quay qua nhìn cô bé và cười toét. “Nhưng tại sao tất cả lại trở về đây?” Nó hỏi.
“À,” ông Bartholomew đi ra cửa sổ. “Đó là một điều bác không thể giải thích được. Bác cần phải ở gần nơi mà những người con của Vua Đỏ được sinh ra. Từ phía bên này vực sông, chúng ta có thể nhìn thấy lâu đài, hoặc những gì còn sót lại của nó. Gần, nhưng lại chắc chắn thoát được sự tấn công của thành phố và của hai gia đình ác độc kia,” ông ngừng lời một giây, “và thoát khỏi thứ mà bác đã nghe nói tới, khi bác đang ở Ý. Một thứ người ta gọi là ‘cái bóng’. Đôi lúc bác vẫn mơ về nó.”
Một luồng gió buốt giá bất giác lùa vào căn phòng ấm cúng, tựa như một cánh cửa vô hình vừa rớt khỏi cửa sổ. Charlie rùng mình. “Một cái bóng đứng đằng sau nhà vua trong tấm chân dung ngài,” nó nói. Ông Bartholomew gật đầu. “Vậy là cháu đã nhìn thấy nó rồi.”
“Tụi cháu nghĩ,” Charlie lưỡng lự, “hình như hắn đã trở lại. Cái bóng đã xê dời, bác biết không, và chúng cháu nghĩ... à, thật ra là một con chuột đã bảo với bạn cháu, bạn Billy ấy, (ông Bartholomew không hề chớp mắt) rằng trái đất rùng mình. Và rồi một con chó...” Charlie nhắc lại câu chuyện của May Phúc về cái bóng biến thành một người đàn ông.
Mẹ của Naren bụm một bàn tay lên miệng, còn ông Bartholomew nhắm mắt lại, lẩn tránh một nỗi kinh hoàng không thể tưởng tượng được.
“Người ta nói đó là Borlath,” Charlie tiếp, “là tổ tiên của ông... cũng là của cháu, cháu nghĩ vậy, vì chúng ta kiểu như cũng họ hàng với nhau.”
“Đó không phải là Borlath,” nhà thám hiểm nói, vẻ u ám. “Cái bóng của nhà vua là người đàn ông đã làm ly tán gia đình của Vua Đỏ. Bác quên mất tên hắn rồi.”
“Cháu chưa bao giờ nghe nói đến ông ta cả,” Charlie nói. “Ông ta không có trong những sách lịch sử của Ông cậu cháu.”
“Sách lịch sử thường được viết ra từ một quan điểm nhất định,” ông Bartholomew nói một cách bực bội. “Chúng bị chỉnh sửa, bị thêm thắt, cắt xén những tình tiết. Chỉ những người du hành mới có thể tìm ra sự thật, Charlie à, bởi vì sự thật ở trong đầu con người và ở trong trái tim họ. Đừng có lúc nào cũng đem đặt lòng tin của mình vào những lời mà cháu thấy trên giấy nhé.”
“Cháu nghĩ về mặt nào đó mình cũng là một người du hành,” Charlie nói.
“Đương nhiên. Và ai mà biết, cháu có thể khám phá nhiều điều về Vua Đỏ hơn những gì bác đã thấy suốt ngần ấy năm rong ruổi của mình.”
“Phải chi cháu có thể đi qua cái bóng đó,” Charlie suỵt soạt.
“Ha! Chúng ta trở lại chuyện cái bóng sau.” Ông Bartholomew đột ngột đứng lên và dí sát vào nhìn mặt Charlie.
Charlie đành nuốt ực những câu hỏi mình định hỏi. Thay vào đó, nó nói về cuộc sống của nó kể từ khi ba nó mất tích, về Học viện Bloor và về những đứa trẻ được ban phép thuật đã trở thành bạn của nó.
“Rồi cháu sẽ tìm được ba cháu, Charlie,” ông Bartholomew nói đầy thuyết phục, “đó là nhờ tính cách của cháu, và nhờ sự trung thành mà cháu đã truyền cho mọi người. Lyell là một người phi thường. Thật kỳ diệu là chú ấy vẫn giữ được cho mình cao quý khi bị vây quanh bởi toàn đồ rắn độc như vậy. Bác đáng tuổi cha chú ấy, nhưng sau vài tuần ngắn ngủi chúng ta đã trở thành bạn thân của nhau. Lúc cháu được một tuổi, Charlie, bác có ghé về thăm gia đình. Nhưng họ chẳng muốn dính líu gì tới bác cả. Thằng con bác hầu như không công nhận bác. Bác nghĩ rằng, về mặt nào đó, Lyell đã trở thành đứa con trai đã mất của bác. Bác đưa chú ấy đi leo núi cùng với bác...” Giọng ông Bartholomew trượt đi, rồi bỗng nhún vai một cái thật mạnh, ông nói, “Đến giờ cháu phải về nhà rồi, Charlie. Nhưng không phải theo đường mà cháu đã đến.”
“Để con...?” Naren mở lời.
“Không,” người cha nghiêm khác. “Con phải ở lại đây với mẹ. Và con sẽ không bao giờ được băng qua cây cầu đó nữa.”
Naren cười lỏn lẻn với Charlie, “Nhưng còn những con thú, cha ơi. Charlie phải đem chúng về cùng với anh ấy chứ.”
“Không thể mang tất cả thú được,” người mẹ cười lớn.
“Chỉ những con là thú của các bạn cháu thôi,” Charlie nói. “Mọi người có thấy con chuột cảnh nào không ạ?”
“Cả đống!” Naren chạy ra hành lang và vừa mặc áo khoác đi bốt vào vừa nói to, “Trong chuồng đầy nhóc bọn chúng. Đi ra xem này.”
Vội vội vàng vàng mặc hết mớ đồ lạnh của mình vô, Charlie theo Naren tới một chuồng gia súc lớn ở góc bên phải ngôi nhà. Khi nó bước vào trong chuồng, một đội quân gặm nhấm bé tí vội chạy láo nháo qua sàn đất, phóng lên đống cỏ khô hoặc chui rúc dưới những khúc gỗ.
“Làm sao anh có thể phân biệt được đây?” Charlie rên rẩm. “Bạn của anh mất hơn hai mươi con.”
“Lại có người biết được con nào với con nào sao?” Naren hỏi.
“Gabriel biết tỉ mỉ từng con chuột của anh ấy,” Charlie nói với một cái thở dài.
Nghe vậy Naren khoái chí bật cười như nắc nẻ, Charlie cũng bật cười theo khúc khích.
Phải mất gần một tiếng đồng hồ mới bắt xong hai mươi lăm con chuột cảnh có vẻ hơi hơi nhận ra được, hai con thỏ trắng, một con vịt, một con vẹt xám, và một con trăn xanh da trời. Kiếm được một đống thùng với hòm, cùng một cái lồng cho con trăn. “Đừng có ham cái chuyện để con đó quấn quanh cổ bác trong lúc bác lái xe đấy nhé,” ông Bartholomew bảo, khi ông giúp Charlie dụ con trăn vào trong lồng. Nhưng con trăn đó là một sinh vật hòa nhã và chắc hẳn sẽ không bao giờ làm hại một người bạn. Không ai trong gia đình họ ngạc nhiên khi biết nó đã một ngàn tuổi. Trong những chuyến đi chu du thiên hạ của mình, ông Bartholomew từng gặp những sinh vật còn nhiều tuổi hơn thế.
Một chiếc xe tải nhẹ méo mó đậu ngoài sân, đằng sau ngôi nhà, và bọn thú nhốt trong thùng xe được cẩn thận chất vào sau xe. Charlie ngồi vào chỗ bên cạnh ông Bartholomew, Homer đậu trên lồng con trăn và Hạt Đậu ngồi trên đùi Charlie.
Chiếc xe tải rồ lên và lăn bánh qua sân. Ngay lập tức, Naren chạy theo bên hông xe. “Đừng đóng... tối nay nhé,” cô bé nói với theo.
“Cái gì?” Charlie ngó qua cửa sổ.
“Đưa cho em một thứ gì đó của anh đi,” Naren nói to.
Hầu như không suy nghĩ, Charlie lột chiếc bao tay của mình và thảy qua cửa sổ. Chiêc xe tải lắc lư ra khỏi sân và đi vào một con đường gồ ghề. Charlie vặn người trên ghế và nhìn qua cửa sổ sau. Nó thấy Naren nhặt bao tay lên và vui sướng vẫy vẫy chiếc bao tay. Bà Meng đứng đằng sau cô, do dự đưa một tay lên. Chiếc xe tải cua gắt vào một ngõ quẹo và hai bóng hình biến mất khỏi tầm nhìn.
“Tạo sao bạn ấy lại muốn có một đồ vật của cháu?” Charlie hỏi ông Bartholomew.
“Nó muốn giữ liên lạc đó mà,” ông Bartholomew mỉm cười một cách bí hiểm với Charlie.
“Nhưng tại sao lại là bao tay? Và cháu tuyệt đối không được đóng cái gì tối nay?”
“Rèm cửa, Charlie. Hãy để ánh trăng chiếu vào.”
“Nhưng mà...”
“Hãy nhìn qua phải,” ông Bartholomew ra lệnh.
Vâng lời, Charlie nhìn băng qua ông Bartholomew. Mới đầu, nó chẳng thấy gì ngoài cây cối, nhưng rồi, ở bên kia đèo, một tòa tháp đỏ quạch hình vuông lọt vào tầm nhìn.
“Lâu đài Đỏ,” Charlie thốt lên.
“Đúng vậy,” ông Bartholomew đồng ý.
“Có một phần của bức tường kìa,” Charlie la lên.
Chiếc xe tải chậm lại để Charlie có thể thấy đống đổ nát của bức tường khổng lồ, xây ở ngay trên mép đèo bên kia. Những mảng tường hiện ra ít nhất cả dặm, sau đó, từ từ, những phiến đá khổng lồ bị mất hút vào biển cây cối bạt ngàn.
“Cháu không ngờ nó lại đồ sộ đến vậy,” Charlie thở hốc.
“Rộng mênh mông ấy chứ,” ông Bartholomew nói. Giọng ông nhẹ đi. “Và bác tin rằng nhà vua, hoặc vong linh của ngài, vẫn còn ở đó. Bây giờ ngài ẩn dật, nhưng có lẽ chẳng bao lâu nữa đâu, ngài sẽ hiển hiện, nhất là khi cái bóng ấy đã trở lại.”
“Hoàng hậu cũng ở đó,” Charlie nói.
Ông Bartholomew nhíu mày quay qua nó, vẻ thắc mắc, và Charlie kể cho nhà thám hiểm nghe về con ngựa trắng đã đưa nó và Billy đến lâu đài Gương.
“Hoàng hậu,” đôi mắt xanh thẳm của ông Bartholomew nhấp nháy. “Ôi thật tuyệt vời.”
Họ đi tiếp trong yên lặng được một lúc thì ông Bartholomew nói nghiêm nghị. “Charlie, điều quan trọng là không được để cho ai biết về bác và gia đình bác. Hãy hứa không được nói cho một linh hồn nào về nơi bác sống nghe chưa, hoặc là nơi cháu đã tìm thấy những con thú.”
Charlie nghĩ tới bạn bè nó, và Ông cậu Paton. “Cháu hứa,” nó ngần ngừ.
Đi một dặm nữa thì họ rời lối mòn xuyên đồng hoang, rẽ vào một con đường cuối cùng đưa họ tới một cây cầu rộng bằng đá. Charlie nghĩ tốt nhất nên đưa tất cả bọn thú tới quán Cà Phê Thú Kiểng để cho những chủ nhân của chúng tới nhận chúng về. Nó chỉ đường cho ông Bartholomew tới đầu hẻm Con Ếch, nhưng nhà thám hiểm chắc sẽ không chịu rời chiếc xe tải của mình.
Trước khi Charlie ra khỏi xe, ông Bartholomew nhét cái gì đó vào túi áo nó. “Bác không có tấm hình nào chụp cha cháu cả,” ông giải thích. “Nhưng cháu hãy cầm lấy cái này. Bác luôn luôn giữ nó và bất giác bác nghĩ rằng nó có thể giúp cháu, Charlie à.”
“Cảm ơn bác.”
“Giờ thì xuống xe nhé. Bác không muốn bị ai thấy bác cả.”
Với cái lồng trăn treo trên một cánh tay, một thùng đựng thỏ với chuột cảnh ở bên cánh tay kia, Charlie hét lên chào tạm biệt, rồi chiếc xe tải phóng đi khỏi. Sau đó nó lặc lè đi xuống hẻm Con Ếch với Hạt Đậu chạy lon ton đằng trước và con vịt Nancy lạch bạch ngoan ngoãn đi đằng sau. Tuy nhiên, con vẹt thông thái cứ biến biệt dạng một chốc thì lại réo lên những lời thô lỗ từ cột điện hay từ bậu cửa sổ.
Charlie đi gần đến quán Cà Phê Thú Kiểng thì nhận thấy có những bước chân trên con đường sỏi đằng sau mình.
“Đứng nguyên tại chỗ, Charlie Bone,” một giọng nói.
Charlie dừng lại và ngó quanh. Dorcas Loom và hai thằng anh to xác của con nhỏ đang khệnh khạng đi về phía Charlie. Bước giữa hai thằng nhà Loom là Joshua Tilpin.
“Chó của bọn tao đâu, Charlie Bone?” Albert Alfred, thằng con nhà Loom xấu nhất và cao nhất, hỏi.
“Ủa. Làm sao mày tìm được con chó của mày và tất cả thú cưng của bạn mày thế này?” Alfred, thằng lùn hơn và bè bè hơn, chất vấn.
“Mày đã làm gì với tất cả bọn thú kia rồi hả, Charlie?” Joshua nói với bộ mặt nhăn nhở. “Nói! Mau!”
“Không làm gì cả,” Charlie đáp. “Tôi chỉ tình cờ tìm thấy những con này,” nó liếc nhìn Nancy, đang núc ních đi tới bên cạnh nó.
“Ô, chỉ tình cờ tìm thấy chúng thôi à?” Dorcas móc máy.
Một tiếng gừ rồ rồ trong cổ họng Hạt Đậu, và Homer rống lên, “Chiến đấu!”
“Chặn cái đồ liến thoắng đó lại,” Albert rít chịt. “Nếu mày không khai cho chúng tao biết chó của chúng tao ở đâu, tao sẽ bắt chó của mày. Bọn tao sẽ bắt cả đám luôn, trừ khi mày nói ra.”
“Nói mau,” Alfred ra lệnh, “không thì...”
Bốn đứa chúng nó bắt đầu tiến lại gần.
Danh sách chương