Cuộc Giải Cứu Bắt Đầu
Rạng sáng thứ Hai, trời xám và lạnh buốt. Trời tối đến nỗi ngoại Maisie phải thắp tất cả đèn trong nhà lên.
Nội Bone thức dậy sớm hơn thường lệ. “Bà thừa biết chuyện gị xảy ra khi thằng em ta xuất hiện mà,” mụ hạnh họe từ chiếc ghế xích đu bên lò sưởi. “ Tất cả bóng đèn sẽ nổ tung.”
“ Tôi sẽ lo liệu hết khi nó xảy ra,” ngoại Maisie nói, “nhưng tôi không thể nấu cháo trong bóng tối.”
Charlie còn nghe thấy họ lời qua tiếng lại trong khi nó đang đánh răng trong buồng tắm. Lúc nó trở lại phòng mình, ông cậu Paton gọi khẽ qua cửa phòng ông, “Vô đây, Charlie. Chúng ta nói chuyện.”
Charlie nhìn vô phòng của ông cậu. Ông đang ngồi bên bàn viết. Ngọn nến đặt bên cạnh ông sắp cháy hết. Charlie có cảm giác là hình như ông cậu chưa hề ngủ chút nào. Giường của ông chất toàn giấy là giấy.
“ Con phải nhanh lên,” Charlie thấp thỏm, “kẻo không con trễ xe buýt trường mất.”
“Việc này không lâu đâu. Vô đây rồi khóa cửa lại.”
Charlie làm như ông cậu bảo và đến đứng cạnh ông. “Ông có ngủ không vậy, Ông cậu Paton?” nó hỏi.
“Quá bận” Ông cậu Paton phẩy tay. “Nhưng xong tất cả rồi, Charlie. Ta rất hài lòng về mình. Ta đã xoay xở liên lạc được với ông Bartholomew Bloor và...”
“Naren?” Charlie kêu lên. “Họ ở đâu?”
“Suỵt!” Ông cậu Paton ra lệnh. “ Bé bé cái miệng lại. Họ ở đâu không quan trọng. Ta biết vài chỗ hồi xưa ông Bartholomew hay lui tới và ta yêu cầu gia đình Brown giúp ta tìm ông ấy. Họ là những thám tử tư kiên trì vô cùng, và chẳng mấy chốc họ đã dò tìm được. Barth là người rất kín kẽ, nhưng ông ấy đồng ý trợ giúp. Chiếc xe thùng của ông ấy sẽ chờ bên cầu- cây cầu đá, không phải cái thanh sắt tạm bợ chết người ấy đâu. Ông ấy sẽ chờ cho tới khi bình minh nếu có thể.”
“Gần cây cầu,” Charlie lặp lại, cố kìm ngáp.
“Bên mạn Bắc. Dưới hàng cây.” Ông cậu Paton nhìn sát vô mặt Charlie. “ Con có nghe kỹ không? Con định phóng thích cậu bé người sói vào đêm nay chứ gì?”
“Đúng. Đúng ạ.”
“Julia và ta đã nghiên cứu kỹ càng, và đúng như lời ông Onimous đã nói với con. Có một lối ngầm từ học viện dẫn tới dòng sông. Nó trổ ra một bãi cây nhỏ phía trên triền sông. Ta chắc chắn gia đình Bloor cũng biết nó, cho nên con phải cẩn thận, Charlie. Con đi một mình hả?”
“Không ạ. Có Tancred và Lysander đi cùng. Cả Billy nữa, bởi vì nó biết nói chuyện với thú.”
Ông cậu Paton nhìn xuống đống giấy tờ trên bàn mình. Mặt ông thật khắc khổ. “Ta cảm thấy ta không nên cho phép con tham gia việc này, Charlie. Cực kỳ nguy hiểm. Nếu có gì xảy đến với con...ta không thể tưởng tượng nổi mình sẽ ăn nói thế nào với ba mẹ con. Nhưng...”
“Nhưng đằng nào con cũng làm,” Charlie nói.
“Ta biết vậy,” Ông cậu Paton thở dài, “ Cho nên ta đã cố hết sức mình khả dĩ giúp cho con dễ dàng hơn phần nào. Ta ước gì mình có mặt ở đó, nhưng ta quá lộ liễu, với lại tài phép của ta...” ông mỉm cười phiền muộn.
“Những vụ nổ bóng đèn đường sẽ làm tiêu tan cuộc chơi,” Charlie vui vẻ nói.
Ông cậu Paton gật đầu buồn bã. “Nên nhớ, ông Bartholomew sẽ chờ ở mạn Bắc cây cầu. Mẹ của Asa cũng ở đó... và một người nữa.”
“Ai thế ạ?”
“Ừm. Cũng hơi phức tạp, nhưng không thể tránh được. Chồng của bà cô Venetia, ông Shellhorn, đã liên lạc với ta đêm qua. Ông ấy biết tên ta thông qua ông Onimous.”Ông cậu Paton gãi cằm trong khi Charlie nóng lòng lắng nghe.
“Ông Shellhorn quyết định phải trốn khỏi bà cô của con – đó là ý nguyện dứt khoát của ông ta, vì lợi ích của con gái ông ấy. Con bé không an toàn trong ngôi nhà kinh khủng đó. Vì vậy, họ cùng nhau tìm đường tới quán Cà Phê Thú Kiểng và ông Bartholomew sẽ đón họ.”
“Còn Eric?” Charlie hỏi.
Ông cậu Paton lắc đầu. “Ông Shellhorn bất đắc dĩ phải để lại con trai. Thằng bé đã thay đổi hoàn toàn. Xem ra nó thán phục bà cô Venetia, để nó can dự vào cuộc đào tẩu bí mật này là quá nguy hiểm.”
“Bức tượng thần lùn!” Charlie la lên. “Họ sẽ không bao giờ qua được hắn đâu.”
“Bức tượng thần lùn biến rồi, cưng.”
Charlie thở hốc. “Sao được? Nó nặng cả tấn mà.”
“Bà thợ rèn bạn của con là một phụ nữ mạnh phi thường.” Ông cậu Paton nói. “Bức tượng thần lùn đã bị khóa lại rồi, và nếu Eric không biết chìa khóa ở đâu thì nó không thể làm cho bức tượng chuyển động.”
“Phù ù! Ông Bartholomew Bloor sẽ chở tất cả họ đi đâu?”
“Đi rất xa, tới nơi mà họ có thể an toàn. Mà con biết đấy, ông Bartholomew Bloor là người giỏi nhất trên đời về việc này.”
Bất chợt có tiếng gõ cửa rầm rầm. “Mày ở trong đó hả, Charlie?” nội Bone la quang quác, lay cành cạnh tay nắm cửa. “Mày trễ xe buýt bây giờ.”
Ông cậu Paton tròn mắt và đẩy nhẹ Charlie ra phía cửa. “À này,” ông thì thào. “Con phải cần đến Olivia nữa.”
“Tại sao?” Charlie nói to.
“Để đánh lạc hướng.” giọng ông cậu Paton khẽ đến nỗi Charlie gần như không nghe thấy. “Ảo giác. Những chiếc xe thùng trắng.”
Từ dưới lầu trệt, nội Bone thét om sòm. “Sao tao phải mất công lo cho mày trễ xe buýt chứ, thằng ngu kia?”
Charlie cười toe toét, mở cửa phòng ông cậu Paton và nhảy xuống chiếu nghỉ. “Xong ngay đây,” nó hét váng nhà.
Charlie không nhận ra sự thay đổi ở Billy cho tới khi giờ nghỉ giải lao đầu tiên. Thằng bé đang ngồi trong phòng để áo khoác, đọc sách, khi Charlie thấy nó.
“Tối nay anh muốn nói chuyện với em, “Charlie nói.
“Sao vậy?” Billy hỏi.
“Chúng ta sẽ giải cứu Asa và điều quan trọng là phải tính toán thời gian.”
“Vậy à?”
“Billy, em có khỏe không?” Charlie cúi xuống thằng bé bạch tạng.
“Em không biết. Em vừa trải qua một kỳ cuối tuần lạ lắm. Em đang chơi trốn tìm với May Phúc thi...rồi thì...”
“Thì sao?”
“Em không biết. Khi em tỉnh dậy trong phòng ngủ chung sáng nay, em không còn nhớ lấy một điều gì đã xảy ra.”
Charlie ngồi xuống bên thằng bé. “Em cảm thấy ổn chứ.”
“Em ổn. Ngoại trừ một điều là em không còn hiểu May Phúc nữa, và nó cũng không hiểu em.” Billy đóng quyển sách lại. “Charlie, anh nghĩ coi có trục trặc gị với muông thú? Hay là em đã mất tài phép của mình rồi?”
“Không đâu Billy. Anh cần em nói chuyện với Asa.”
“Ố,” Billy bối rối. “Để em cố. Anh sẽ đánh thức em dậy khi tới lúc chứ?”
“Dĩ nhiên.”
Phòng để áo khoác xanh da trời bắt đầu đầy bọn trẻ và Charlie kết thúc câu chuyện. Nó đi ra sân, ở đó nó thấy Tancred và Lysander sóng bước đi loanh quanh. Các anh dừng lại khi thấy Charlie, và Lysander hạ thấp giọng hỏi. “Em đã quyết định đêm nay à, Charlie?”
“Phải là đêm nay thôi,” Charlie bảo, “ bởi vì có người sẽ chờ đón Asa.”
“Hay,” Tancred nói. “Càng sớm càng tốt. Nhưng hãy nhớ, anh nghĩ chúng ta nên chờ tới quá nửa đêm. Anh thường thấy đèn trong khu gia đình Bloor sáng tới 1 giờ sáng.”
“Vậy thì 2 giờ,” Charlie nói.
“Em có thức dậy nổi không?” Lysander hỏi.
“Ba em cho em một chiếc đồng hồ đeo tay khi ba đi nghỉ. Nó có báo thức.” Charlie tự hào khoe chiếc đồng hồ mặt đen có vòng số sáng choang.
“Oa!” Tancred ân cần nói. “Quá ấn tượng. Anh hy vọng nó không dựng cả phòng ngủ chung dậy.”
“Em có chắc là muốn làm việc này không, Charlie?” Lysander bất chợt nghiêm sắc mặt. “Anh không trách em nếu em hoãn tất cả lại. Ở dưới đó trong bóng tối không dễ đâu.”
“Và Asa có thể cắn chết em,” Tancred nói khẽ.
Charlie cười toe toét, mặc dù lúc đó, ấy là điều cuối cùng nó muốn làm. “Hai anh sẽ ở đâu?”
“Anh sẽ canh chừng Manfred, còn nó sẽ đối phó với Dagbert.” Lysander hất đầu về phía cậu bạn tóc vàng.
“Vậy em sẽ không còn phải lo gì nữa, hẹn gặp lại đêm nay.”
Khi Charlie bước trở vô trường nó thấy một tốp trẻ xúm quanh Joshua và hai chị em sinh đôi. Joshua bị bầm đen quanh mắt, cái mũi của một đứa trong hai chị em sinh đôi chuyển màu xanh dương, và đứa kia quấn một cuộn băng thun tổ bố trên trán. Joshua chỉ Charlie, và đám trẻ quay lại, nhìn nó trân trân.
Charlie vẫy tụi nó một cái vui vẻ.
Trong bữa trưa Charlie thấy chộn chạo trong bụng; nó gần như không ăn được gì. Suốt thời gian còn lại trong ngày, tim nó đập dồn dập, tay lạnh toát và nhớp nháp mồ hôi; đến tiết học cuối cùng, môn tiếng Pháp, nó thấy thật phiền hà, hai đầu gối cứ đập vào nhau. Mình không sợ,nó tự nhủ.
Fidelio nhoài về phía nó. “Sao vậy,Charlie?”
“Im lặng!” cô Tessier mắng.
“Để sau sẽ nói,” Charlie thầm thì.
“IM LẶNG!” cô Tessier rống lên.
Charlie loay hoay mãi mới gặp được một mình Fidelio trong phòng ngủ chung trước bữa tối. Nó kể tất tật cho bạn nghe.
Fidelio cau mày lo lắng. “Anh đi với em nhé, Charlie? Anh không yên tâm vì em với Billy có một mình dưới đó với con thú hoang...”
“Asa chưa thành thú hoang,” Charlie nói.
“ Làm sao em biết? Anh ta là thú ít nhất hai tuần nay rồi. Anh ta rất hung dữ. Sao em không bỏ cuộc đi, Charlie?”
“Asa đã liều tất cả mọi thứ để cứu em,” Charlie nói rành rõ. “Em không thể để anh ấy... chết mòn.”
Fidelio nhún vai. “Thôi được. Anh sẽ để mắt tới Dagbert nếu nó thức giấc.”
“Ố, thể nào nó cũng thức,” Charlie nói.
Vẫn còn một người nữa Charlie phải móc nối. Olivia. Fidelio khăng khăng đòi đi đến phòng ngủ chung của nữ với Charlie, kẻo “ coi chừng em đâm sầm vô bà giám thị ở đó”.
Đúng vậy thật. Bà ta đang đứng ngay bên ngoài phòng ngủ chung của Olivia, trên tay ôm đống khăn trải giường. “Tụi bay cấm được vô đây”.
“Cháu chỉ mượn một quyển sách thôi,” Charlie nói.
“Đi đi, không mượn miếc gì hết,” đôi mắt đen hí của bà cô Lucretia khóa chặt vô mắt Charlie. “Ta đã nghe rất nhiều chuyện phiền phức về mày đó, Charlie Bone. Chúng tao ai nấy đều kinh tởm vì mày ra nông nỗi này. Hừ, với một thằng cha như cha mày thì ai dám mong...”
“Ý bà là sao?” Charlie hét tướng lên, nắm chặt tay lại. “Cha tôi đáng giá hàng trăm người Yewbeam.”
“Hắn là một Yewbeam, đồ ngu. Ít ra đó là một điều vớt vát.” Bà ta mỉm cười cay độc khi Charlie giơ nắm tay lên.
“Charlie!” Fidelio chộp cánh tay của nó. “Tụi mình ra khỏ đây đi.”
Chúng vừa định quay ra thì cánh cửa đằng sau bà giám thị xịch mở và Olivia thò đầu ra. “Chào, Charlie. Tớ có quyển sách đằng ấy mượn rồi nè,” con nhỏ nói, huơ huơ quyển sách dạy chia động từ tiếng Pháp.
Bà cô Lucretia bước khỏi cánh cửa. “ Nghe trộm là thói quen xấu xa,” bà ta nạt nộ. “Xuống lầu mau, lũ tụi bay.”
Bọn chúng sướng quá đến tưởng như không tuân lệnh được.
Trong phòng vẽ rộng mênh mông, Charlie vạch kế hoạch của nó cho Olivia biết.
“Tớ thích đi với đằng ấy hơn.” Mắt con nhỏ ánh lên tia dữ dằn. “Tớ muốn biết dưới đó thế nào. Không chừng có kho báu...đó. Đằng ấy định mặc Pyjamas à. Có cần ủng cao su không, tớ nghĩ có thể lối đi ấy dẫn tới sông.”
“Liv, im nghe đi đã,” Fidelio nhắc nhở. “Em có việc để làm.”
“À, cái gì?” Olivia bực dọc. Nó khoanh tay lại chờ đợi.
“Tạo ảo ảnh. Liv. Đó là tất cả những gì tớ cần ở bồ. Tớ không cần bồ chui xuống đất.”
“Ối.” Olivia thất vọng thấy rõ. “Đằng ấy muốn có ảo ảnh ở đâu?”
“Toàn thành phố. Tớ biết Manfred đang chờ điều gì đó sắp xảy ra. Hắn biết tớ sẽ cố cứu Asa, nhưng hắn không biết là khi nào. Hắn thậm chí còn không biết là tớ đã biết chỗ Asa bị nhốt.” Charlie liếc nhìn vẻ mặt mất kiên nhẫn của Olivia, chợt trong đầu nó bật ra ý nghĩ muốn thoái lui. “Thật ra tớ không biết chắc. Tớ chỉ đoán dựa vào lời của ông Onimous thôi.”
“Cộng với linh cảm của em nữa,” Fidelio động viên. “Linh cảm mách bảo em, đúng không?”
“Phải, linh cảm.” Nhưng linh cảm cũng mách bảo Charlie rằng nó không biết Asa ở đâu đó sâu bên dưới học viện hay là ở sâu tuốt trong bóng tối đen kịt, xa khỏi phòng phục trang.Chỉ là đoán hú họa thôi.
“Vậy đằng ấy muốn ảo ảnh gì?”
Giọng réo rắt của Olivia kéo Charlie trở về trái đất. “Xe thùng, Liv. Những chiếc xe thùng nhỏ màu trắng, hơi xập xệ.” Nó ráng hết sức mô tả chiếc xe thùng cũ móp mép của ông Bartholomew. “Những ảo ảnh của bồ sẽ tung hỏa mù, che giấu chiếc xe thật, đề phòng trường hợp có kẻ theo dõi. Cần khoảng chừng năm hay sáu chiếc, đậu quanh thành phố, và tớ cần vào khoảng giữa 2 giờ đúng, rạng sáng.”
“Đằng ấy giỡn hả?” Olivia kêu lên.
“Không,” Charlie nghiêm trang.
“Ừ thì đằng ấy không giỡn.” Olivia cười khì. “Emama sẽ giúp đánh thức tớ dậy. Tớ nghĩ mình sẽ khoái mê vụ này.”
Chúng rời phòng vẽ, chợt thấy một dáng hình cao, hơi gù hiện ra ở cuối hành lang. Cái hình hài ấy bắt đầu khập khiễng về phía chúng, và Charlie cứng người lại. Manfred lại ló mặt ra và tung hoành nữa rồi. Charlie chờ cho cái người đeo mặt nạ tới gần.
Fidelio và Olivia đứng hai bên Charlie, nhìn thân hình cao nhòng lọt vô luồng ánh sáng duy nhất trong hành lang.
Miệng Charlie há xệ ra. Không hề đeo mặt nạ. Không hề còn sẹo. Mặt Manfred láng o và tai tái như từ xưa vẫn thế.
“Ngạc nhiên chưa, Charlie Bone? Sốc à?” Manfred tập tệch tiến sát đến Charlie, đứng khựng ngay trước mặt nó. “Chẳng phải tao may phước có lũ bạn tài giỏi là gì?” gã thanh niên vuốt vuốt gò má láng của mình. “Tao cá là mày không bao giờ nghĩ tao trở lại được như thế này, đúng không?”
Không thể tìm ra lời đáp, Charlie ho khục khục.
“Chúng tôi luôn hy vọng cho những điều tốt đẹp nhất,” Olivia phọt miệng. “Rất mừng khi thấy anh.. anh đẹp trai như vậy, Manfred.”
Fidelio chỉ còn biết ú ớ đằng sau bàn tay bịt miệng.
“NGÀI chứ,” Manfred sủa ông ổng. “Tụi bay phải gọi tao là ngài.”
“Vâng, thưa ngài,” Olivia nhu mì.
Chúng vội lỉnh đi khỏi Manfred, không dám nhìn nhau, nhưng khi chạy tới cuối hành lang, Manfred gọi với theo.”Tao sẽ canh chừng mày, Charlie Bone, cho nên đừng giở trò ngu dại đấy.”
“Vâng, thưa ngài,” Charlie lầu bầu.
Có một bầu không khí căng thẳng bứt thần kinh trong phòng Nhà Vua tối hôm ấy. Joshua Tilpin ăn mặc lôi thôi lếch thếch chưa từng thấy. Tóc nó biết bệt mẩu giấy, bụi, mạng nhện, vỏ bút chì. Những miếng plastisc dùng để bao tập rách lua tua, teo dính trong ống tay áo nó, bàn tay nó phủ kín vụn bánh mì.
Hai chị em sinh đôi nhận thức rõ Tancred là thủ phạm gây ra những vết bầm dập cho mình, nên cứ nhắm sách và hộp đựng viết về hướng cậu ấy, nhưng sức mạnh của chúng hình như đã bị rút hết và Tancred dễ dàng đẩy lui chúng chỉ bằng vài hơi gió thoảng.
Dagbert nhìn mọi diễn biến với vẻ thản nhiên, có mưu mô gì đấy. Chốc chốc nó lại tóm lấy ánh mắt Charlie và mặt nó nói cho Charlie biết tất cả mọi điều: Dagbert sẵn sàng làm bất cứ điều gì Manfred sai khiến.
Trong hai giờ làm bài tập về nhà, Emma là đứa duy nhất mỉm cười. Tancred đã mời con nhỏ ngồi bên cạnh mình và, đỏ nhừ mặt mũi lên, Emma nhận lời. Tiếp đến là cười mãi không thôi. Đó chỉ là nụ cười phảng phất, nhưng cứ tủm tỉm và nâng cao tinh thần Charlie đáng kể.
Sau giờ bài tập về nhà, bọn trẻ giải tán trong im lặng. Charlie thậm chí không liếc nhìn Lysander và Tancred. Nó biết mình không được để lộ bóng gió nào về phi vụ bí mật đêm nay.
Trong phòng ngủ chung, Fidelio cư xử như không có gì bất thường sắp xảy ra, mặc dù Billy cứ nhúm nhó mặt mày và nghễnh ngãng tận đâu đâu.
Đến lúc Charlie nằm xuống giường, nó cảm thấy như trong người mình có một cuộn lò xo cuộn chắc, có thể bung ra bất thình lình. Làm sao có thể nằm im đến tận 2 giờ sáng? Nó muốn đi cứu Asa ngay lập tức, trước khi nó đứt dây thần kinh mất.
Đâu khoảng giữa 11 giờ và nửa đêm, Charlie lăn ra ngủ, mệt phờ vì những tưởng tượng của chính mình. Nó đã hình dung rất nhiều khả năng khác nhau của cuộc giải cứu Asa, nên đầu óc nó cuối cùng kêu đòi được nghỉ.
Charlie tỉnh giấc và thấy ai đó nhẹ nhàng lắc cánh tay mình.
“ Charlie. 2 giờ rồi,” Fidelio thì thầm.
Charlie ngồi dậy, dụi mắt. “Em thậm chí còn không nghe thấy đồng hồ mình reng.”
“Anh cũng nghĩ vậy. Charlie, Dagbert không có ở trên giường nó. Anh không biết nó rời phòng khi nào.”
Charlie lăn khỏi giường. “Giờ không thể lo lắng chuyện đó,” nó lào xào. “Em đánh thức Billy dậy đây.” Nó khoác tấm áo chùng xanh da trời, trong khi chân lò mò kiếm đôi giày.
Một cái vỗ nhẹ vào đầu khiến Billly ngọ nguậy bên dưới tấm vải trải giường. “Gì đó?” thằng bé ngơ ngác.
“Suỵt!” Charlie xòe tay bịt mồm Billy lại.
“Không! Không!” giọng Billy nghẹt lại. “Đừng.”
“Suỵt! Billy, anh đây, Charlie nè. Tới giờ đi rồi.”
“Đi đâu?”
“Suỵt! Đi cứu Asa.”
“Em không muốn đi,” Billy đẩy tay Charlie ra.
Ở đầu kia phòng ngủ chung, vài đứa cựa mình ú ớ trong giấc ngủ. Chờ để chắc chắn không đứa nào tỉnh dậy, Charlie thì thào. “Đi mà, bọn anh cần em.”
Một thoáng im lặng thật lâu, và rồi Billy với tay tìm mắt kính của nó. Thòng chân xuống sàn, nó chật vật chui vô áo chùng và mang giày. Charlie nắm cánh tay nó và, không một lời, chúng chạy băng qua phòng ngủ chung.
“Chúc may mắn!” Fidelio thì thầm thật khẽ, Charlie không nghe thấy.
Trong hành lang thắp sáng tù mù, Charlie có thể thấy đôi mắt mở lớn, kinh hoảng của Billy, chợt cảm thấy tội lỗi. “Xin lỗi, Billy. Làm ơn đừng sợ. Đáng ra anh không nên bảo em làm điều này, nhưg em là người duy nhất có thể nói chuyện với Asa.”
“Không phải Asa – mà là Sói Hoang,” Billy nói. “Và em sợ là mình không thể làm được điều cần làm.”
“Em sẽ làm được mà. Đi thôi.” Charlie bắt đầu đi mau trong hành lang.
m thanh duy nhất trong tòa nhà rộng lớn, đang ngủ say này là tiếng bước chân nó lẹp xẹp trên ván lát sàn bằng gỗ sồi. Bầu tĩnh mịch vô biên khiến Charlie cảm nhận như mình và Billy là những sinh vật sống duy nhất. Nhưng nó cũng biết, ở đâu đó trong bóng tối, Dagbert Endless và Manfred Bloor vẫn thức, đang rình chờ nó.
Nhưng không ai hiện ra khi chúng cập rập đi ngược hành lang, không ai theo chúng trên hành lang hẹp tới nhà hát, và không ai chặn chúng trên sân khấu. Bóng tối trong nhà hát đen kìn kịt, Charlie phải lôi cây đèn pin của nó ra.
“Tụi mình đi đâu giờ?” Billly thì thầm.
Charlie huơ cây đèn pin ra cuối sân khấu cho tới khi trông thấy ô cửa sập. “Đó!” nó nói.
“Tối kinh quá,” Billy sợ sệt..
“Ừ,” Charlie tán đồng. “ Nhưng cây đèn pin này rất tốt.” Nó rua cây đèn pin dọc theo dưới gấu của tấm màn nhung, nơm nớp sợ Manfred ẩn đâu đó trong những nếp gấp nặng, sâu kia. Nhưng chẳng có ai ở đó. Nó nhón chân đi tới cửa sập và, lén lút ngó qua vai, cầm cái vòng sắt, nhấc cánh cửa lên.
“Nó không khóa,” Billy nhận xét.
“Không bao giờ.”
“Nhưng biết đâu. Có ổ khóa trên khoen cửa này. Ai đó có thể đóng cửa và bấm khóa nhốt tụi mình bên trong.”
Charlie liếc nhìn cái ổ khóa gỉ sét. “Nó cũ mèm rồi, Billly. Đã nhiều năm không ai dùng tới. Có khi không còn chìa khóa mở nó nữa đâu. Nhìn nè, nó bấm vô rồi. Không ai có thể mưor nó ra.Đi.”
Hạ cánh cửa sập xuống sàn, Charlie bắt đầu xuống cầu thang gỗ.
Billy ái ngại nhìn cái ổ khóa. “Em đóng cửa sập lại sau khi em xuống nhé?”
“Cũng được,” Charlie nói nhóng lên. Nó xuống tới chân cầu thang và bật đèn lên.
Billy leo xuống và kéo cửa sập lại phía trên đầu nó. “Em chưa bao giờ xuống đây,” nó nói khi đứng trong căn phòng đầy ắp tủ với rương, hòm.
“Đây là khu phục trang.” Một ý nghĩ vụt đến với Charlie. “Tụi mình nên tìm một ít đồ cho Asa, để khi trở lại thành người anh ấy mặc.”
“Nếu anh ấy có thể trở lại thành người,” Billy làm bàm.
Charlie mở cái rương đầu tiên. Nó lôi ra một chiếc áo khoác dày bằng vải tuýt và mặc vào bên dưới áo chùng của nó. Billy chọn một cái mũ nồi xanh da trời trong một cái tủ và một cái quần nhung kẻ trong một cái rương khác. Nó đội mũ lên đầu và cột cái quần quanh cổ. Charlie vồ lấy đôi giày bốt màu nâu đế dày cui, trông thích mắt, nghĩ bụng liệu sau đó mình có đổi cho Asa được không. Nó cột dây giày lại với nhau và quàng vào cổ.
“Tụi mình tắt đèn đi nha?” Billy hỏi, khi Charlie tới chỗ hốc tối đằng sau hàng cột.
Charlie lần chần. “Không. Tụi mình phải quay lại lối này sau khi đã đưa Asa ra tới bờ sông.”
“Nếu tụi mình tìm được Asa,” Billy lẳng lặng nói.
Khi đã đi qua hàng cột, Charlie lia cây đèn pin lên bức tường rêu mốc, đen sì. Ở đằng cuối bức tường, một lối đi hình vòm, thấp lộ ra. Trong khoảnh khắc đó, Charlie muốn đánh đổi tất cả mọi thứ để được quay trở lại. Nhưng nó biết là không thể. “Đi, “ nó nói và nhẹ cả người khi nghe tiếng bước chân của Billy lẹp kẹp đằng sau.
Cẩn thận tuôn qua mái vòm, chúng thấy mình vô một đường hầm hẹp. Mái trần thấp, tường và sàn được xây dựng toàn bằng gạch đỏ quạch, bể lỗ chỗ và lóng lánh đá vôi.Sau vài mét, đường hầm dốc sâu xuống, dốc đến nỗi tụi nhỏ bắt đầu trượt tuột luốt trên gạch ẩm ướt.
“Cứu!” Billy thét rùm.
Charlie mất đà ngã oạch xuống đất, nó quính quíu chộp đại bức tường. Cây đèn pin văng khỏi tay nó. Nó nghe tiếng cây đèn lăn lông lốc dưới đất rồi ngưng. Giây sau từ xa vộng lại tiếng thịch,khô khốc.
“m thanh nghe như nó lọt xuống một cái hố,” giọng Billy run rẩy.
“Có thể tụi mình đã lọt cái hố đó,” Charlie lầm bầm. “Cây đèn của anh tiêu là cái chắc.”
Nhưng vào lúc này, chúng không bị rơi vào bóng tối đen đặc – một vầng sáng bạc tỏa nhẹ đường hầm và, trên đâu Charlie, một đốm sáng nhỏ lập lờ.
“Claerwen!” Charlie ngước lên nhìn con bướm trắng. “Sáng quá. Anh đã hy vọng nó sẽ tới mà.”
“Charlie, tụi mình có lạc đường không?” Billy năn nỉ. “Em không muốn bị rơi xuống hố đó.”
“Có thể có cầu thang.” Quỳ thọp xuống, Charlie thận trọng bò tới trước. Tới miệng hố, nó có thể thấy một cái thang xếp bằng sắt dựa vô tường. Ngay cả trong ánh sáng tinh khôi của Claerwen, nó cũng không thể thấy cái thang kết thúc ở đâu.
Billy bò lại chỗ Charlie và ngó xuống. “Đó là vực thẳm,” nó thét. “Tụi mình không bao giờ xuống tới đáy đâu. Có lẽ nó đi vào lòng trái đất.”
“Làm gì có.” Charlie cố ra vẻ điềm tĩnh, nhưng nó không thể giữ cho giọng đừng run.
Bỗng rồi nó nghe thấy: tiếng con thú rên rỉ đằng xa. Tiếng rên thảm não, đứt ruột đến nỗi thúc Charlie quăng chân thòng xuống thang mà không suy nghĩ một giây.
Rạng sáng thứ Hai, trời xám và lạnh buốt. Trời tối đến nỗi ngoại Maisie phải thắp tất cả đèn trong nhà lên.
Nội Bone thức dậy sớm hơn thường lệ. “Bà thừa biết chuyện gị xảy ra khi thằng em ta xuất hiện mà,” mụ hạnh họe từ chiếc ghế xích đu bên lò sưởi. “ Tất cả bóng đèn sẽ nổ tung.”
“ Tôi sẽ lo liệu hết khi nó xảy ra,” ngoại Maisie nói, “nhưng tôi không thể nấu cháo trong bóng tối.”
Charlie còn nghe thấy họ lời qua tiếng lại trong khi nó đang đánh răng trong buồng tắm. Lúc nó trở lại phòng mình, ông cậu Paton gọi khẽ qua cửa phòng ông, “Vô đây, Charlie. Chúng ta nói chuyện.”
Charlie nhìn vô phòng của ông cậu. Ông đang ngồi bên bàn viết. Ngọn nến đặt bên cạnh ông sắp cháy hết. Charlie có cảm giác là hình như ông cậu chưa hề ngủ chút nào. Giường của ông chất toàn giấy là giấy.
“ Con phải nhanh lên,” Charlie thấp thỏm, “kẻo không con trễ xe buýt trường mất.”
“Việc này không lâu đâu. Vô đây rồi khóa cửa lại.”
Charlie làm như ông cậu bảo và đến đứng cạnh ông. “Ông có ngủ không vậy, Ông cậu Paton?” nó hỏi.
“Quá bận” Ông cậu Paton phẩy tay. “Nhưng xong tất cả rồi, Charlie. Ta rất hài lòng về mình. Ta đã xoay xở liên lạc được với ông Bartholomew Bloor và...”
“Naren?” Charlie kêu lên. “Họ ở đâu?”
“Suỵt!” Ông cậu Paton ra lệnh. “ Bé bé cái miệng lại. Họ ở đâu không quan trọng. Ta biết vài chỗ hồi xưa ông Bartholomew hay lui tới và ta yêu cầu gia đình Brown giúp ta tìm ông ấy. Họ là những thám tử tư kiên trì vô cùng, và chẳng mấy chốc họ đã dò tìm được. Barth là người rất kín kẽ, nhưng ông ấy đồng ý trợ giúp. Chiếc xe thùng của ông ấy sẽ chờ bên cầu- cây cầu đá, không phải cái thanh sắt tạm bợ chết người ấy đâu. Ông ấy sẽ chờ cho tới khi bình minh nếu có thể.”
“Gần cây cầu,” Charlie lặp lại, cố kìm ngáp.
“Bên mạn Bắc. Dưới hàng cây.” Ông cậu Paton nhìn sát vô mặt Charlie. “ Con có nghe kỹ không? Con định phóng thích cậu bé người sói vào đêm nay chứ gì?”
“Đúng. Đúng ạ.”
“Julia và ta đã nghiên cứu kỹ càng, và đúng như lời ông Onimous đã nói với con. Có một lối ngầm từ học viện dẫn tới dòng sông. Nó trổ ra một bãi cây nhỏ phía trên triền sông. Ta chắc chắn gia đình Bloor cũng biết nó, cho nên con phải cẩn thận, Charlie. Con đi một mình hả?”
“Không ạ. Có Tancred và Lysander đi cùng. Cả Billy nữa, bởi vì nó biết nói chuyện với thú.”
Ông cậu Paton nhìn xuống đống giấy tờ trên bàn mình. Mặt ông thật khắc khổ. “Ta cảm thấy ta không nên cho phép con tham gia việc này, Charlie. Cực kỳ nguy hiểm. Nếu có gì xảy đến với con...ta không thể tưởng tượng nổi mình sẽ ăn nói thế nào với ba mẹ con. Nhưng...”
“Nhưng đằng nào con cũng làm,” Charlie nói.
“Ta biết vậy,” Ông cậu Paton thở dài, “ Cho nên ta đã cố hết sức mình khả dĩ giúp cho con dễ dàng hơn phần nào. Ta ước gì mình có mặt ở đó, nhưng ta quá lộ liễu, với lại tài phép của ta...” ông mỉm cười phiền muộn.
“Những vụ nổ bóng đèn đường sẽ làm tiêu tan cuộc chơi,” Charlie vui vẻ nói.
Ông cậu Paton gật đầu buồn bã. “Nên nhớ, ông Bartholomew sẽ chờ ở mạn Bắc cây cầu. Mẹ của Asa cũng ở đó... và một người nữa.”
“Ai thế ạ?”
“Ừm. Cũng hơi phức tạp, nhưng không thể tránh được. Chồng của bà cô Venetia, ông Shellhorn, đã liên lạc với ta đêm qua. Ông ấy biết tên ta thông qua ông Onimous.”Ông cậu Paton gãi cằm trong khi Charlie nóng lòng lắng nghe.
“Ông Shellhorn quyết định phải trốn khỏi bà cô của con – đó là ý nguyện dứt khoát của ông ta, vì lợi ích của con gái ông ấy. Con bé không an toàn trong ngôi nhà kinh khủng đó. Vì vậy, họ cùng nhau tìm đường tới quán Cà Phê Thú Kiểng và ông Bartholomew sẽ đón họ.”
“Còn Eric?” Charlie hỏi.
Ông cậu Paton lắc đầu. “Ông Shellhorn bất đắc dĩ phải để lại con trai. Thằng bé đã thay đổi hoàn toàn. Xem ra nó thán phục bà cô Venetia, để nó can dự vào cuộc đào tẩu bí mật này là quá nguy hiểm.”
“Bức tượng thần lùn!” Charlie la lên. “Họ sẽ không bao giờ qua được hắn đâu.”
“Bức tượng thần lùn biến rồi, cưng.”
Charlie thở hốc. “Sao được? Nó nặng cả tấn mà.”
“Bà thợ rèn bạn của con là một phụ nữ mạnh phi thường.” Ông cậu Paton nói. “Bức tượng thần lùn đã bị khóa lại rồi, và nếu Eric không biết chìa khóa ở đâu thì nó không thể làm cho bức tượng chuyển động.”
“Phù ù! Ông Bartholomew Bloor sẽ chở tất cả họ đi đâu?”
“Đi rất xa, tới nơi mà họ có thể an toàn. Mà con biết đấy, ông Bartholomew Bloor là người giỏi nhất trên đời về việc này.”
Bất chợt có tiếng gõ cửa rầm rầm. “Mày ở trong đó hả, Charlie?” nội Bone la quang quác, lay cành cạnh tay nắm cửa. “Mày trễ xe buýt bây giờ.”
Ông cậu Paton tròn mắt và đẩy nhẹ Charlie ra phía cửa. “À này,” ông thì thào. “Con phải cần đến Olivia nữa.”
“Tại sao?” Charlie nói to.
“Để đánh lạc hướng.” giọng ông cậu Paton khẽ đến nỗi Charlie gần như không nghe thấy. “Ảo giác. Những chiếc xe thùng trắng.”
Từ dưới lầu trệt, nội Bone thét om sòm. “Sao tao phải mất công lo cho mày trễ xe buýt chứ, thằng ngu kia?”
Charlie cười toe toét, mở cửa phòng ông cậu Paton và nhảy xuống chiếu nghỉ. “Xong ngay đây,” nó hét váng nhà.
Charlie không nhận ra sự thay đổi ở Billy cho tới khi giờ nghỉ giải lao đầu tiên. Thằng bé đang ngồi trong phòng để áo khoác, đọc sách, khi Charlie thấy nó.
“Tối nay anh muốn nói chuyện với em, “Charlie nói.
“Sao vậy?” Billy hỏi.
“Chúng ta sẽ giải cứu Asa và điều quan trọng là phải tính toán thời gian.”
“Vậy à?”
“Billy, em có khỏe không?” Charlie cúi xuống thằng bé bạch tạng.
“Em không biết. Em vừa trải qua một kỳ cuối tuần lạ lắm. Em đang chơi trốn tìm với May Phúc thi...rồi thì...”
“Thì sao?”
“Em không biết. Khi em tỉnh dậy trong phòng ngủ chung sáng nay, em không còn nhớ lấy một điều gì đã xảy ra.”
Charlie ngồi xuống bên thằng bé. “Em cảm thấy ổn chứ.”
“Em ổn. Ngoại trừ một điều là em không còn hiểu May Phúc nữa, và nó cũng không hiểu em.” Billy đóng quyển sách lại. “Charlie, anh nghĩ coi có trục trặc gị với muông thú? Hay là em đã mất tài phép của mình rồi?”
“Không đâu Billy. Anh cần em nói chuyện với Asa.”
“Ố,” Billy bối rối. “Để em cố. Anh sẽ đánh thức em dậy khi tới lúc chứ?”
“Dĩ nhiên.”
Phòng để áo khoác xanh da trời bắt đầu đầy bọn trẻ và Charlie kết thúc câu chuyện. Nó đi ra sân, ở đó nó thấy Tancred và Lysander sóng bước đi loanh quanh. Các anh dừng lại khi thấy Charlie, và Lysander hạ thấp giọng hỏi. “Em đã quyết định đêm nay à, Charlie?”
“Phải là đêm nay thôi,” Charlie bảo, “ bởi vì có người sẽ chờ đón Asa.”
“Hay,” Tancred nói. “Càng sớm càng tốt. Nhưng hãy nhớ, anh nghĩ chúng ta nên chờ tới quá nửa đêm. Anh thường thấy đèn trong khu gia đình Bloor sáng tới 1 giờ sáng.”
“Vậy thì 2 giờ,” Charlie nói.
“Em có thức dậy nổi không?” Lysander hỏi.
“Ba em cho em một chiếc đồng hồ đeo tay khi ba đi nghỉ. Nó có báo thức.” Charlie tự hào khoe chiếc đồng hồ mặt đen có vòng số sáng choang.
“Oa!” Tancred ân cần nói. “Quá ấn tượng. Anh hy vọng nó không dựng cả phòng ngủ chung dậy.”
“Em có chắc là muốn làm việc này không, Charlie?” Lysander bất chợt nghiêm sắc mặt. “Anh không trách em nếu em hoãn tất cả lại. Ở dưới đó trong bóng tối không dễ đâu.”
“Và Asa có thể cắn chết em,” Tancred nói khẽ.
Charlie cười toe toét, mặc dù lúc đó, ấy là điều cuối cùng nó muốn làm. “Hai anh sẽ ở đâu?”
“Anh sẽ canh chừng Manfred, còn nó sẽ đối phó với Dagbert.” Lysander hất đầu về phía cậu bạn tóc vàng.
“Vậy em sẽ không còn phải lo gì nữa, hẹn gặp lại đêm nay.”
Khi Charlie bước trở vô trường nó thấy một tốp trẻ xúm quanh Joshua và hai chị em sinh đôi. Joshua bị bầm đen quanh mắt, cái mũi của một đứa trong hai chị em sinh đôi chuyển màu xanh dương, và đứa kia quấn một cuộn băng thun tổ bố trên trán. Joshua chỉ Charlie, và đám trẻ quay lại, nhìn nó trân trân.
Charlie vẫy tụi nó một cái vui vẻ.
Trong bữa trưa Charlie thấy chộn chạo trong bụng; nó gần như không ăn được gì. Suốt thời gian còn lại trong ngày, tim nó đập dồn dập, tay lạnh toát và nhớp nháp mồ hôi; đến tiết học cuối cùng, môn tiếng Pháp, nó thấy thật phiền hà, hai đầu gối cứ đập vào nhau. Mình không sợ,nó tự nhủ.
Fidelio nhoài về phía nó. “Sao vậy,Charlie?”
“Im lặng!” cô Tessier mắng.
“Để sau sẽ nói,” Charlie thầm thì.
“IM LẶNG!” cô Tessier rống lên.
Charlie loay hoay mãi mới gặp được một mình Fidelio trong phòng ngủ chung trước bữa tối. Nó kể tất tật cho bạn nghe.
Fidelio cau mày lo lắng. “Anh đi với em nhé, Charlie? Anh không yên tâm vì em với Billy có một mình dưới đó với con thú hoang...”
“Asa chưa thành thú hoang,” Charlie nói.
“ Làm sao em biết? Anh ta là thú ít nhất hai tuần nay rồi. Anh ta rất hung dữ. Sao em không bỏ cuộc đi, Charlie?”
“Asa đã liều tất cả mọi thứ để cứu em,” Charlie nói rành rõ. “Em không thể để anh ấy... chết mòn.”
Fidelio nhún vai. “Thôi được. Anh sẽ để mắt tới Dagbert nếu nó thức giấc.”
“Ố, thể nào nó cũng thức,” Charlie nói.
Vẫn còn một người nữa Charlie phải móc nối. Olivia. Fidelio khăng khăng đòi đi đến phòng ngủ chung của nữ với Charlie, kẻo “ coi chừng em đâm sầm vô bà giám thị ở đó”.
Đúng vậy thật. Bà ta đang đứng ngay bên ngoài phòng ngủ chung của Olivia, trên tay ôm đống khăn trải giường. “Tụi bay cấm được vô đây”.
“Cháu chỉ mượn một quyển sách thôi,” Charlie nói.
“Đi đi, không mượn miếc gì hết,” đôi mắt đen hí của bà cô Lucretia khóa chặt vô mắt Charlie. “Ta đã nghe rất nhiều chuyện phiền phức về mày đó, Charlie Bone. Chúng tao ai nấy đều kinh tởm vì mày ra nông nỗi này. Hừ, với một thằng cha như cha mày thì ai dám mong...”
“Ý bà là sao?” Charlie hét tướng lên, nắm chặt tay lại. “Cha tôi đáng giá hàng trăm người Yewbeam.”
“Hắn là một Yewbeam, đồ ngu. Ít ra đó là một điều vớt vát.” Bà ta mỉm cười cay độc khi Charlie giơ nắm tay lên.
“Charlie!” Fidelio chộp cánh tay của nó. “Tụi mình ra khỏ đây đi.”
Chúng vừa định quay ra thì cánh cửa đằng sau bà giám thị xịch mở và Olivia thò đầu ra. “Chào, Charlie. Tớ có quyển sách đằng ấy mượn rồi nè,” con nhỏ nói, huơ huơ quyển sách dạy chia động từ tiếng Pháp.
Bà cô Lucretia bước khỏi cánh cửa. “ Nghe trộm là thói quen xấu xa,” bà ta nạt nộ. “Xuống lầu mau, lũ tụi bay.”
Bọn chúng sướng quá đến tưởng như không tuân lệnh được.
Trong phòng vẽ rộng mênh mông, Charlie vạch kế hoạch của nó cho Olivia biết.
“Tớ thích đi với đằng ấy hơn.” Mắt con nhỏ ánh lên tia dữ dằn. “Tớ muốn biết dưới đó thế nào. Không chừng có kho báu...đó. Đằng ấy định mặc Pyjamas à. Có cần ủng cao su không, tớ nghĩ có thể lối đi ấy dẫn tới sông.”
“Liv, im nghe đi đã,” Fidelio nhắc nhở. “Em có việc để làm.”
“À, cái gì?” Olivia bực dọc. Nó khoanh tay lại chờ đợi.
“Tạo ảo ảnh. Liv. Đó là tất cả những gì tớ cần ở bồ. Tớ không cần bồ chui xuống đất.”
“Ối.” Olivia thất vọng thấy rõ. “Đằng ấy muốn có ảo ảnh ở đâu?”
“Toàn thành phố. Tớ biết Manfred đang chờ điều gì đó sắp xảy ra. Hắn biết tớ sẽ cố cứu Asa, nhưng hắn không biết là khi nào. Hắn thậm chí còn không biết là tớ đã biết chỗ Asa bị nhốt.” Charlie liếc nhìn vẻ mặt mất kiên nhẫn của Olivia, chợt trong đầu nó bật ra ý nghĩ muốn thoái lui. “Thật ra tớ không biết chắc. Tớ chỉ đoán dựa vào lời của ông Onimous thôi.”
“Cộng với linh cảm của em nữa,” Fidelio động viên. “Linh cảm mách bảo em, đúng không?”
“Phải, linh cảm.” Nhưng linh cảm cũng mách bảo Charlie rằng nó không biết Asa ở đâu đó sâu bên dưới học viện hay là ở sâu tuốt trong bóng tối đen kịt, xa khỏi phòng phục trang.Chỉ là đoán hú họa thôi.
“Vậy đằng ấy muốn ảo ảnh gì?”
Giọng réo rắt của Olivia kéo Charlie trở về trái đất. “Xe thùng, Liv. Những chiếc xe thùng nhỏ màu trắng, hơi xập xệ.” Nó ráng hết sức mô tả chiếc xe thùng cũ móp mép của ông Bartholomew. “Những ảo ảnh của bồ sẽ tung hỏa mù, che giấu chiếc xe thật, đề phòng trường hợp có kẻ theo dõi. Cần khoảng chừng năm hay sáu chiếc, đậu quanh thành phố, và tớ cần vào khoảng giữa 2 giờ đúng, rạng sáng.”
“Đằng ấy giỡn hả?” Olivia kêu lên.
“Không,” Charlie nghiêm trang.
“Ừ thì đằng ấy không giỡn.” Olivia cười khì. “Emama sẽ giúp đánh thức tớ dậy. Tớ nghĩ mình sẽ khoái mê vụ này.”
Chúng rời phòng vẽ, chợt thấy một dáng hình cao, hơi gù hiện ra ở cuối hành lang. Cái hình hài ấy bắt đầu khập khiễng về phía chúng, và Charlie cứng người lại. Manfred lại ló mặt ra và tung hoành nữa rồi. Charlie chờ cho cái người đeo mặt nạ tới gần.
Fidelio và Olivia đứng hai bên Charlie, nhìn thân hình cao nhòng lọt vô luồng ánh sáng duy nhất trong hành lang.
Miệng Charlie há xệ ra. Không hề đeo mặt nạ. Không hề còn sẹo. Mặt Manfred láng o và tai tái như từ xưa vẫn thế.
“Ngạc nhiên chưa, Charlie Bone? Sốc à?” Manfred tập tệch tiến sát đến Charlie, đứng khựng ngay trước mặt nó. “Chẳng phải tao may phước có lũ bạn tài giỏi là gì?” gã thanh niên vuốt vuốt gò má láng của mình. “Tao cá là mày không bao giờ nghĩ tao trở lại được như thế này, đúng không?”
Không thể tìm ra lời đáp, Charlie ho khục khục.
“Chúng tôi luôn hy vọng cho những điều tốt đẹp nhất,” Olivia phọt miệng. “Rất mừng khi thấy anh.. anh đẹp trai như vậy, Manfred.”
Fidelio chỉ còn biết ú ớ đằng sau bàn tay bịt miệng.
“NGÀI chứ,” Manfred sủa ông ổng. “Tụi bay phải gọi tao là ngài.”
“Vâng, thưa ngài,” Olivia nhu mì.
Chúng vội lỉnh đi khỏi Manfred, không dám nhìn nhau, nhưng khi chạy tới cuối hành lang, Manfred gọi với theo.”Tao sẽ canh chừng mày, Charlie Bone, cho nên đừng giở trò ngu dại đấy.”
“Vâng, thưa ngài,” Charlie lầu bầu.
Có một bầu không khí căng thẳng bứt thần kinh trong phòng Nhà Vua tối hôm ấy. Joshua Tilpin ăn mặc lôi thôi lếch thếch chưa từng thấy. Tóc nó biết bệt mẩu giấy, bụi, mạng nhện, vỏ bút chì. Những miếng plastisc dùng để bao tập rách lua tua, teo dính trong ống tay áo nó, bàn tay nó phủ kín vụn bánh mì.
Hai chị em sinh đôi nhận thức rõ Tancred là thủ phạm gây ra những vết bầm dập cho mình, nên cứ nhắm sách và hộp đựng viết về hướng cậu ấy, nhưng sức mạnh của chúng hình như đã bị rút hết và Tancred dễ dàng đẩy lui chúng chỉ bằng vài hơi gió thoảng.
Dagbert nhìn mọi diễn biến với vẻ thản nhiên, có mưu mô gì đấy. Chốc chốc nó lại tóm lấy ánh mắt Charlie và mặt nó nói cho Charlie biết tất cả mọi điều: Dagbert sẵn sàng làm bất cứ điều gì Manfred sai khiến.
Trong hai giờ làm bài tập về nhà, Emma là đứa duy nhất mỉm cười. Tancred đã mời con nhỏ ngồi bên cạnh mình và, đỏ nhừ mặt mũi lên, Emma nhận lời. Tiếp đến là cười mãi không thôi. Đó chỉ là nụ cười phảng phất, nhưng cứ tủm tỉm và nâng cao tinh thần Charlie đáng kể.
Sau giờ bài tập về nhà, bọn trẻ giải tán trong im lặng. Charlie thậm chí không liếc nhìn Lysander và Tancred. Nó biết mình không được để lộ bóng gió nào về phi vụ bí mật đêm nay.
Trong phòng ngủ chung, Fidelio cư xử như không có gì bất thường sắp xảy ra, mặc dù Billy cứ nhúm nhó mặt mày và nghễnh ngãng tận đâu đâu.
Đến lúc Charlie nằm xuống giường, nó cảm thấy như trong người mình có một cuộn lò xo cuộn chắc, có thể bung ra bất thình lình. Làm sao có thể nằm im đến tận 2 giờ sáng? Nó muốn đi cứu Asa ngay lập tức, trước khi nó đứt dây thần kinh mất.
Đâu khoảng giữa 11 giờ và nửa đêm, Charlie lăn ra ngủ, mệt phờ vì những tưởng tượng của chính mình. Nó đã hình dung rất nhiều khả năng khác nhau của cuộc giải cứu Asa, nên đầu óc nó cuối cùng kêu đòi được nghỉ.
Charlie tỉnh giấc và thấy ai đó nhẹ nhàng lắc cánh tay mình.
“ Charlie. 2 giờ rồi,” Fidelio thì thầm.
Charlie ngồi dậy, dụi mắt. “Em thậm chí còn không nghe thấy đồng hồ mình reng.”
“Anh cũng nghĩ vậy. Charlie, Dagbert không có ở trên giường nó. Anh không biết nó rời phòng khi nào.”
Charlie lăn khỏi giường. “Giờ không thể lo lắng chuyện đó,” nó lào xào. “Em đánh thức Billy dậy đây.” Nó khoác tấm áo chùng xanh da trời, trong khi chân lò mò kiếm đôi giày.
Một cái vỗ nhẹ vào đầu khiến Billly ngọ nguậy bên dưới tấm vải trải giường. “Gì đó?” thằng bé ngơ ngác.
“Suỵt!” Charlie xòe tay bịt mồm Billy lại.
“Không! Không!” giọng Billy nghẹt lại. “Đừng.”
“Suỵt! Billy, anh đây, Charlie nè. Tới giờ đi rồi.”
“Đi đâu?”
“Suỵt! Đi cứu Asa.”
“Em không muốn đi,” Billy đẩy tay Charlie ra.
Ở đầu kia phòng ngủ chung, vài đứa cựa mình ú ớ trong giấc ngủ. Chờ để chắc chắn không đứa nào tỉnh dậy, Charlie thì thào. “Đi mà, bọn anh cần em.”
Một thoáng im lặng thật lâu, và rồi Billy với tay tìm mắt kính của nó. Thòng chân xuống sàn, nó chật vật chui vô áo chùng và mang giày. Charlie nắm cánh tay nó và, không một lời, chúng chạy băng qua phòng ngủ chung.
“Chúc may mắn!” Fidelio thì thầm thật khẽ, Charlie không nghe thấy.
Trong hành lang thắp sáng tù mù, Charlie có thể thấy đôi mắt mở lớn, kinh hoảng của Billy, chợt cảm thấy tội lỗi. “Xin lỗi, Billy. Làm ơn đừng sợ. Đáng ra anh không nên bảo em làm điều này, nhưg em là người duy nhất có thể nói chuyện với Asa.”
“Không phải Asa – mà là Sói Hoang,” Billy nói. “Và em sợ là mình không thể làm được điều cần làm.”
“Em sẽ làm được mà. Đi thôi.” Charlie bắt đầu đi mau trong hành lang.
m thanh duy nhất trong tòa nhà rộng lớn, đang ngủ say này là tiếng bước chân nó lẹp xẹp trên ván lát sàn bằng gỗ sồi. Bầu tĩnh mịch vô biên khiến Charlie cảm nhận như mình và Billy là những sinh vật sống duy nhất. Nhưng nó cũng biết, ở đâu đó trong bóng tối, Dagbert Endless và Manfred Bloor vẫn thức, đang rình chờ nó.
Nhưng không ai hiện ra khi chúng cập rập đi ngược hành lang, không ai theo chúng trên hành lang hẹp tới nhà hát, và không ai chặn chúng trên sân khấu. Bóng tối trong nhà hát đen kìn kịt, Charlie phải lôi cây đèn pin của nó ra.
“Tụi mình đi đâu giờ?” Billly thì thầm.
Charlie huơ cây đèn pin ra cuối sân khấu cho tới khi trông thấy ô cửa sập. “Đó!” nó nói.
“Tối kinh quá,” Billy sợ sệt..
“Ừ,” Charlie tán đồng. “ Nhưng cây đèn pin này rất tốt.” Nó rua cây đèn pin dọc theo dưới gấu của tấm màn nhung, nơm nớp sợ Manfred ẩn đâu đó trong những nếp gấp nặng, sâu kia. Nhưng chẳng có ai ở đó. Nó nhón chân đi tới cửa sập và, lén lút ngó qua vai, cầm cái vòng sắt, nhấc cánh cửa lên.
“Nó không khóa,” Billy nhận xét.
“Không bao giờ.”
“Nhưng biết đâu. Có ổ khóa trên khoen cửa này. Ai đó có thể đóng cửa và bấm khóa nhốt tụi mình bên trong.”
Charlie liếc nhìn cái ổ khóa gỉ sét. “Nó cũ mèm rồi, Billly. Đã nhiều năm không ai dùng tới. Có khi không còn chìa khóa mở nó nữa đâu. Nhìn nè, nó bấm vô rồi. Không ai có thể mưor nó ra.Đi.”
Hạ cánh cửa sập xuống sàn, Charlie bắt đầu xuống cầu thang gỗ.
Billy ái ngại nhìn cái ổ khóa. “Em đóng cửa sập lại sau khi em xuống nhé?”
“Cũng được,” Charlie nói nhóng lên. Nó xuống tới chân cầu thang và bật đèn lên.
Billy leo xuống và kéo cửa sập lại phía trên đầu nó. “Em chưa bao giờ xuống đây,” nó nói khi đứng trong căn phòng đầy ắp tủ với rương, hòm.
“Đây là khu phục trang.” Một ý nghĩ vụt đến với Charlie. “Tụi mình nên tìm một ít đồ cho Asa, để khi trở lại thành người anh ấy mặc.”
“Nếu anh ấy có thể trở lại thành người,” Billy làm bàm.
Charlie mở cái rương đầu tiên. Nó lôi ra một chiếc áo khoác dày bằng vải tuýt và mặc vào bên dưới áo chùng của nó. Billy chọn một cái mũ nồi xanh da trời trong một cái tủ và một cái quần nhung kẻ trong một cái rương khác. Nó đội mũ lên đầu và cột cái quần quanh cổ. Charlie vồ lấy đôi giày bốt màu nâu đế dày cui, trông thích mắt, nghĩ bụng liệu sau đó mình có đổi cho Asa được không. Nó cột dây giày lại với nhau và quàng vào cổ.
“Tụi mình tắt đèn đi nha?” Billy hỏi, khi Charlie tới chỗ hốc tối đằng sau hàng cột.
Charlie lần chần. “Không. Tụi mình phải quay lại lối này sau khi đã đưa Asa ra tới bờ sông.”
“Nếu tụi mình tìm được Asa,” Billy lẳng lặng nói.
Khi đã đi qua hàng cột, Charlie lia cây đèn pin lên bức tường rêu mốc, đen sì. Ở đằng cuối bức tường, một lối đi hình vòm, thấp lộ ra. Trong khoảnh khắc đó, Charlie muốn đánh đổi tất cả mọi thứ để được quay trở lại. Nhưng nó biết là không thể. “Đi, “ nó nói và nhẹ cả người khi nghe tiếng bước chân của Billy lẹp kẹp đằng sau.
Cẩn thận tuôn qua mái vòm, chúng thấy mình vô một đường hầm hẹp. Mái trần thấp, tường và sàn được xây dựng toàn bằng gạch đỏ quạch, bể lỗ chỗ và lóng lánh đá vôi.Sau vài mét, đường hầm dốc sâu xuống, dốc đến nỗi tụi nhỏ bắt đầu trượt tuột luốt trên gạch ẩm ướt.
“Cứu!” Billy thét rùm.
Charlie mất đà ngã oạch xuống đất, nó quính quíu chộp đại bức tường. Cây đèn pin văng khỏi tay nó. Nó nghe tiếng cây đèn lăn lông lốc dưới đất rồi ngưng. Giây sau từ xa vộng lại tiếng thịch,khô khốc.
“m thanh nghe như nó lọt xuống một cái hố,” giọng Billy run rẩy.
“Có thể tụi mình đã lọt cái hố đó,” Charlie lầm bầm. “Cây đèn của anh tiêu là cái chắc.”
Nhưng vào lúc này, chúng không bị rơi vào bóng tối đen đặc – một vầng sáng bạc tỏa nhẹ đường hầm và, trên đâu Charlie, một đốm sáng nhỏ lập lờ.
“Claerwen!” Charlie ngước lên nhìn con bướm trắng. “Sáng quá. Anh đã hy vọng nó sẽ tới mà.”
“Charlie, tụi mình có lạc đường không?” Billy năn nỉ. “Em không muốn bị rơi xuống hố đó.”
“Có thể có cầu thang.” Quỳ thọp xuống, Charlie thận trọng bò tới trước. Tới miệng hố, nó có thể thấy một cái thang xếp bằng sắt dựa vô tường. Ngay cả trong ánh sáng tinh khôi của Claerwen, nó cũng không thể thấy cái thang kết thúc ở đâu.
Billy bò lại chỗ Charlie và ngó xuống. “Đó là vực thẳm,” nó thét. “Tụi mình không bao giờ xuống tới đáy đâu. Có lẽ nó đi vào lòng trái đất.”
“Làm gì có.” Charlie cố ra vẻ điềm tĩnh, nhưng nó không thể giữ cho giọng đừng run.
Bỗng rồi nó nghe thấy: tiếng con thú rên rỉ đằng xa. Tiếng rên thảm não, đứt ruột đến nỗi thúc Charlie quăng chân thòng xuống thang mà không suy nghĩ một giây.
Danh sách chương