Hiệp Sĩ Đỏ
Nếu con bướm trắng không đi với chúng, Charlie không nghi ngờ gì, chắc hẳn mình và Billy đã té xuống hố chết queo rồi. Những thanh ngang của cái thang mục tơi tả. Có chỗ mất mấy thanh liên tục. Không có ánh sáng dẫn đường thì bảo đảm chúng sẽ trượt chân, mà đường rơi xuống sẽ rất xa, xa thật là xa.
Nhưng cuối cùng chúng cũng lại được đứng trên mặt đất cứng. Ở đáy hố, những bức tường lát đá tảng và đá phiến khổng lồ, và đó kìa, lùm lùm trong bóng tối, có một sinh vật xám gầy giơ xương.
“Asa?” Charlie khẽ hỏi.
Sinh vật đó quay phắt đầu lại. Con mắt vàng nhoé lên kinh hãi trước ánh sáng xa lạ, và nó hộc lên một tiếng rền đục.
“Nó nói gì đó, Billy?” Charlie hỏi.
Billy bóp trán. “Em không biết.”
“Em phải biết.”
“Không biết. Em đã nói với anh hoài mà. Em không còn hiểu được ngôn ngữ của thú nữa.
Cuối cùng giờ mới vỡ lẽ ra. Trước đó Charlie không hỏi chuyện Billy đến nơi đến chốn, bởi vì nó không dám để chính mình tin là Billy bị mất tài phép thuật. “Điều đó có nghĩa là em cũng không thể nói chuyện được với anh ấy?” nó hồi hộp hỏi.
“Đừng nghĩ vậy,” Billy nói, dán tịt mắt vào sinh vật xám.
Bất thần một tiếng rống vang, và, răng nhe ra, con thú đâm xổ vào chúng.
“Asa!” Charlie hét. “Anh không nhận ra em sao?”
Tiếng rống hạ xuống đục rồ rồ. Charlie và Billy dựa chết dí vô tường.
“Cố lên, Billy, cố lên,” Charlie nhắm mắt trong hồn xiêu phách lạc.
Phản ứng của Billy là quăng chiếc mũ nồi ra giữa sàn. Sinh vật gừ và xồ tới gần hơn. Billy quăng tiếp cái quần theo sau chiếc mũ. Sinh vật hít ngửi chúng, nhỏng đầu lên và tru.
“Em nghĩ điều đó có nghĩa là anh ấy không thích chúng,” Billy nói.
“Anh mày còn kén chọn,” Charlie lầu bầu. “Nếu anh mà không thích đôi giày bốt này thì anh sẽ ăn cái mũ trùm đầu của anh luôn.” Chú ý để không làm sinh vật nổi giận, nó quẳng đôi giày bốt nhẹ hều qua một bên.
Sinh vật đi long tong tới đó. Khi nó cào đôi giày bóng loáng, Charlie nhận thấy con vật mới hốc hác tàn tạ làm sao. Từng cái xương sườn trơ lòi ra dưới lớp lông xám thô cứng. Hầu như khắp cơ thể không có lấy một gờ-ram thịt nào.
“Tội nghiệp,” Charlie nói khẽ.
“Em nhớ âm thanh chỉ giày bốt rồi,” Billy thì thào phấn khích, đoạn gừ lên một tiếng nhẹ.
Sinh vật ngước lên. Gừ một tiếng cộc lốc.
“Tốt,” Billy bảo. “Nó nói là ‘tốt’.”
“Em còn nhớ thêm âm thanh nào nữa không?” Charlie hỏi.
“Như cái gì?”
“Ừm, em coi có thể nói với anh ấy tụi mình tới cứu anh ấy, và anh ấy phải mặc đồ vào nhanh nhanh lên, trước khi tụi mình tìm đường hầm ra sông.”
“Charlie, anh ấy không thể mặc đồ được, anh ấy là sói. Mà sói làm sao đi giày?”
Charlie thấy mình khờ hết sức. “Ờ nhỉ,” nó ỉu xìu. “Anh ấy cần nhiều ánh sáng hơn để biến thành người.”
Billy thở hốc lên. “Em quên mất. Em chúa hay quên, nhưng mà, đây!” Billy thọc tay vô túi quần pyjamas và rút ra một cây đèn cầy. Ngọn nến lập tức bùng sáng. “Nến phép thuật của người giám hộ em,” Billy sung sướng. “Em luôn giữ nó bên mình.”
“Dĩ nhiên!” Charlie toét miệng cười. “Anh cũng quên phéng nó luôn. Anh nghĩ nó được việc đấy. Giơ cao lên, Billy.”
Kết hợp ánh sáng từ con bướm trắng và cây nến, trong hố bừng sáng hệt như ban ngày. Con bướm nãy giờ đậu trên đỉnh tảng đá cao nhất, giờ bắt đầu bay lại gần con thú. Lờn vờn giữa hai tai con vật. Thấy một tia sáng mỏng loe loé trên mái đầu xơ xác của mình, con vật táp con bướm. Nhanh như chớp, con bướm thụt xuống đậu trên lưng con vật, tỏa một vệt sáng gắt khắp xương sống nó. Con vật quay mòng lại, rú và tru lên gầm gừ. Không nao núng, con bướm nhỏ lòn vuột qua cái đuôi teo quắt và rồi, không thể tin nổi, nó bay đan xen giữa những cẳng chân của con thú cho tới khi mỗi chân trở thành một cột ánh sáng rực rỡ. Con thú lọng cọng nhấc chân lên, nhưng tiếng gừ lịm đi chỉ còn là tiếng rên phập phều.
“Anh ấy đang biến đổi,” Billy thì thào. “Coi kìa!”
Quả đúng vậy, con thú đang biến hình – một vệt tóc đỏ lưa thưa xuất hiện giữa đôi tai rách tướp. Những đặc điểm dài của sói mờ dần đi, hiện ra một cái trán nhợt nhạt, đôi má người vàng bủng hình thành quanh cái mõm nhọn, rồi tới đôi vai xương xẩu qua lớp lông xám lơ thơ. Cùng với một tiếng thét đột ngột – có thể là tiếng tru kháng cự hay niềm vui sướng – con thú quay lưng lại và nằm bẹp xuống đất.
Vài giây sau, Charlie nhận ra mình đang nhìn trân tráo vào cái lưng của một cậu bé hẳn hoi. Nó liền bước tới, cởi tấm áo khoác dưới áo chùng của mình ra và nhẹ nhàng đắp cho cậu bé.
Một tiếng nấc phụt vang trong hố. Charlie quỳ xuống bên cạnh Asa, vỗ về. “Được rồi, Asa. Tụi em đến giúp anh đây.”
Billy mang cái quần xanh lá cây và đôi giày bốt lại gần. Con bướm trở về chỗ cũ của nó nơi tảng đá. Hình như nó có ý đợi.
Từ từ, Asa đứng lên. Quay lưng về phía chúng, mặc quần và đi giày vào. Khi đã rùng mình tròng chiếc áo khoác xong, anh ta quay mặt lại nhìn Charlie và Billy với nụ cười tươi rói.
“Asa! Anh lại là anh rồi,” Charlie reo mừng.
“Đúng,” Asa nói khàn khàn. Bật ho. “Xin lỗi, cổ họng khô nghét. Chưa hề nói chuyện suốt mấy tuần.”
“Tụi em sẽ đưa anh ra khỏi đây, nhưng tụi mình phải lẹ lên. Có một đường hầm dẫn ra bờ sông. Có người đang đợi để cứu anh. Mẹ anh sẽ ở đó.” Charlie nói nhanh đến nỗi Asa thộn người ra, bối rối.
Charlie nói chậm lại. “Suy đoán của em là đường hầm bắt đầu đằng sau một trong những tảng đá kia.”
“Mẹ tôi khỏe chứ?” Asa lầm bầm.
“Khỏe.” Charlie ngần ngừ rồi vụng về nói, “Em rất tiếc về ba của anh.”
Mặt Asa chợt nhúm nhó lại, thấy vậy Billy vội nói, “Em cá đường hầm ở đằng sau tảng đá cao kia, chỗ con bướm của anh đậu í, Charlie. Em chắc chắn luôn đó.”
“Tụi mình lại coi xem sao.” Charlie đi tới tảng đá và cô dịch dời nó. “Cần phải ba tụi mình mới nổi. Phụ với nào, hai vị.”
Billy tắt nến của nó đi và đút trở vô túi quần. Sau vài phút đẩy và lôi, thở phì phà phì phò, chúng loay hoay dời được tảng đá vài phân khỏi bức tường. Billy nói đúng. Có một lối ra bí mật. Như được tiếp thêm sức, ba thằng đẩy tảng đá thêm vài phân nữa. Giờ thì đủ chỗ cho chúng ép mình chui qua cửa hầm.
Bọn chúng lẳng lặng mà đi. Billy trước, rồi tới Asa. Charlie bước sau cùng, phòng trường hợp anh ta lại mất đi dạng người. Nhưng con bướm trắng dập dềnh bay sát thằng người thú, nhằm bảo đảm ánh sáng cho anh ta giữ nguyên hình hài con người.
Đường hầm này tối đen và bốc mùi mốc hơn đường hầm đầu tiên nhiều. Tất nhiên là nó lạnh lẽo hơn. Charlie và Billy trùm mũ áo chùng lên, còn Asa, hơi lần chần, đội mũ nồi vào. Charlie là đứa đầu tiên nhận ra nước, khi chân Asa bắt đầu lội lóe tóe, bắn những tia nước lạnh toát vào chân Charlie.
“Anh có nghĩ nước sông sẽ tràn vô đường hầm không?” Billy hốt hoảng hỏi.
“Không thể nào,” Charlie đáp. “Đường này ở phía trên dòng sông rất xa,vả lại, tụi mình đang đi lên chứ không phải đi xuống.”
“Nhỡ sông làm lụt hang thì sao?” Billy cố chấp.
“Trời dạo này đâu có mưa,” Charlie nói. Dẫu nói vậy nhưng nó đồng thời nhớ lại cảnh nước sông dâng cuồn cuộn suýt quét chúng khỏi cây cầu. “Dagbert,” nó lầm bầm.
Vài phút sau, nước dâng sấp đầu gối. “Tụi mình phải quay lại thôi,” Billy hét.
Charlie ngoái dòm lại. Đằng sau nó, một dòng nước bùn sình đang tràn vô đường hầm. “Không được rồi. Đằng sau tụi mình nước còn ngập sâu hơn. Lẹ lên, Billy.”
Billy dợm chân chạy, nhưng thoáng cái, nước đã cao hơn đầu gối nó. Sức nước mạnh đến nỗi nó gần như không tiến lên được. “Tụi mình sẽ chết đuối mất,” nó mếu máo.
Asa xuội dựa vô tường. “Tại tôi,” anh van vỉ. “Manfred không bao giờ buông tha tôi. Hắn thà thấy tôi chết còn hơn.”
“Là Dagbert Endless đó,” Charlie cay đắng. “ Tụi mình quyết không để nó đánh bại. Phải chạy tiếp thôi.” Nó vượt qua Asa và chộp lấy tay Billy. “Chúng ta phải giúp nhau. Nào, Asa, nắm lấy tay kia của Billy.”
Chúng lại bắt đầu di chuyển, chậm một cách đau đớn, trong khi con bướm trắng lượn lờ trên đầu, phát ra những tia sáng sống động có tác dụng khích lệ tinh thần bọn chúng. Thế nhưng nó không thể ngăn nước ngừng dâng, và chẳng bao lâu dòng nước xoáy mấp mé eo bọn chúng. Charlie không biết mình còn cách sông bao xa nữa. Có lẽ triền sông đã chìm dưới nước rồi cũng nên. Để rồi ngay khi ló ra, chúng sẽ bị cuốn vô dòng nước lũ.
Khi nước tới vai, Charlie bắt đầu từ bỏ hy vọng.
Xa tuốt bên trên đường hầm, Tancred Torsson đang băng qua sân chơi của học viện Bloor. Cậu vốn rất nhạy cảm với nước trong tất cả mọi trạng thái của nó. Cậu có khả năng bắt mạch thủy triều, nhận biết mưa đang trên đường tới, thậm chí cậu còn biết chắc khi nào nước trút khỏi đám mây nặng nề. Lúc này đây, Tancred biết đích xác là sâu dưới lòng đất, có nước đang tràn lấp một đường hầm cổ xưa. Cậu nghe thấy tiếng nước rùng rùng dưới chân mình, và đoán ra Charlie đang gặp nguy hiểm. Chẳng khó cho Tancred biết dòng nước chết người đó bắt nguồn từ đâu. Ở rìa khu rừng bao quanh lâu đài Vua Đỏ có ánh sáng lân tinh chiếu phừng phực lên khỏi những ngọn cây. Khi tiến tới gần hơn, Tancred bắt gặp Dagbert Endless đang dựa vô một thân cây. Đầu nó ngỏng lên, mắt nhắm tịt, miệng cười cợt.
Tancred xăm xăm tiếp cận thằng bé. “Dừng lại ngay,” cậu ra lệnh.
Dagbert choàng mắt ra. “Ố, là mày.”
“Tao nghe tiếng nước. Mày đang dìm chết tụi chúng. Dẹp ngay.”
“Sao phải dẹp?” Dagbert sừng sộ. “Tao đang thưởng thức thời huy hoàng của cuộc đời tao.”
“Không còn nữa.” Tancred tung áo chùng của mình thành một hình vòng cung rộng màu xanh lá cây.
“Mày định làm gì?” Dagbert ngờ vực hỏi.
Một luồng khí băng giá cuốn nó xoay tít rời xa cái cây. “Thôi!” nó thét gào đúng lúc một cơn gió mạnh hất hai chân nó hổng khỏi mặt đất. Tức thì dòng sinh vật nhỏ vàng óng tuột khỏi túi nó khi nó bị úp ngược xuống, quơ quào không khí.
Dấn người tới trước, Tancred chụp lấy những sinh vật nhỏ tí.
“Không!” Dagbert hét.
Tancred lùi lại và để cho thằng bé đâm sầm xuống đất. Dagbert nằm cứng đờ một hồi, sau đó bắt đầu run như giẽ. Mặt nó bắt đầu nhóa lên thứ ánh sáng xanh lá cây bệnh hoạn, hai bàn tay nó phát sáng và một quầng sáng dạ quang chiếu xuyên qua quần áo nó. Cơn run không sao kiểm soát được.
“Trả... sinh... vật... biển... cho... tao,” Dagbert láp ngáp.
“Cái này á?” Tancred bốc chuyển chúng từ tay này qua tay kia. “Tao không nghĩ thế.”
“Tàn ác!” Dagbert rống lên.
“Dừng nước lại!”
“K-h-ô-n-g!”
Tancred giơ cao bàn tay nắm chặt lên và Dagbert bay vút qua khu rừng. Những cành sắc đâm rách áo quần nó, cào toạc mặt nó, gai mắc vào tóc nó và những cành trụi lột sạch giày nó. Lúc nó rơi tòm xuống đất lần thứ hai, cơn run trở nên dữ dội đến mức người nó giãy đành đạch dưới đất. “Trả tao...” nó khều khào.
Tancred bước tới bên thằng bé phát sáng. “Tao sẽ chẳng trả mày cái gì đến chừng nào mày ngưng nước lại.”
Im lặng thật lâu, sau đó, tiếng thở dài, Dagbert nhắm mắt lại và vấn tay xuống đất.
Tancred bắt đầu cảm thấy một sự thay đổi nơi mặt đất dưới chân mình. Cậu nhìn Dagbert và chờ đợi. Vẫn run cầm cập, Dagbert cắm những ngón tay xuống sâu nữa, sâu nữa xuống mặt đất. Cuối cùng bằng giọng run bắn, nó vọt ra lời “Xong!”
“Hừm, tao sẽ không cảm ơn mày đâu.” Tancred quay ngoắt đi.
“Làm ơ-n,” Dagbert rên rỉ.
“Những sinh vật vàng óng của mày? Đến mà lấy chúng đi này.” Tancred rải những con cá bé xíu và những con cua vàng xuống bãi cỏ cao làm lằn ranh của khu rừng. Nhưng cậu đút con nhím biển vô túi quần. Dành cho những cuộc đối đầu sau này, cậu nhủ thầm. Hòa mình vào bóng tối đen đặc, cậu lần đường trở lại trường. Trước đó cậu phát hiện thấy một luồng sáng ở trên lầu trên cùng của tòa nhà và không muốn làm gì liều lĩnh cả.
Lão Ezekiel đã chứng kiến toàn cảnh đó từ trên cửa sổ gác mái cao vọi của lão. Có điều, vì không biết là Dagbert không ở một mình trong rừng, lão ấn tượng quá trời trước những màu sắc chói rực bốc cuồn cuộn lên khỏi ngọn cây.
“Bắc cực quang của riêng chúng ta,” lão cười khục khục. “Giỏi lắm, Dagbert Endless.”
Trong đường hầm, sâu bên dưới cánh rừng, Charlie cảm thấy dòng nước bắt đầu yếu đi.
“Nó đang rút,” Asa hổn hển.
Chẳng mấy chốc bọn chúng thấy bùn sình trở lại dưới chân mình. Vài phút sau chúng đã bước đi trên nền gạch ướt lấp xấp. Dòng lũ chỉ còn là những gợn nước lăn tăn.
“Làm sao lại có chuyện này được?” Billy nói.
“Anh nghĩ Tancred đã ra tay đấy.” Charlie cười toe ngước nhìn mái trần rêu phủ.
Bây giờ chúng đang đi lên một con dốc nghiêng. Xa tít bên trên, Charlie có thể thấy vầng trăng và, dẫu bị té ạch đụi mấy lần xuống nền gạch trơn trợt, mặt trăng tưới lên chúng một niềm hy vọng tươi mới và, phớt lờ quần áo ướt sũng và tay chân trầy trụa, chúng hăng hái bò lên, cho tới khi từng đứa một, lăn tòm vô một bãi cây nhỏ bên cạnh triền sông. Một làn gió mạnh đã thổi bạt mây khỏi bầu trời, để lại vạn vật tắm đẫm trong ánh trăng.
“Chúng ta tới rồi!” Charlie hét to, lăn xuống bờ dốc.
Bọn kia lăn theo. Asa thậm chí còn cười rúc rích. Trông bộ dạng anh ta thật quái với mái tóc đỏ thòi lòi dưới mũ nồi, và áo khoác dài tráng kín bùn.
Giờ chúng đã tới đây, đủ cả ba đứa, run lập cập vì ướt và lạnh, và Charlie muốn chắc chắn Asa đến được chiếc xe thùng của ông Bartholomew. Chúng chạy dọc theo dải đất cho tới khi cây cầu hiện ra trong tầm mắt, và đó kìa, thấy nhô lên khỏi bức tường đá, là một chiếc xe thùng màu trắng.
“Asa,” Charlie chỉ cây cầu, “Thấy chiếc xe thùng màu trắng đó không? Mẹ anh ở trong đó, đang chờ anh đó.”
Nó chưa dứt lời, cả bọn bỗng cảm thấy mặt đất rung chuyển. Có tiếng rập cà rập từ xa dội đến tai chúng; lúc tiếng động lớn dần lên thì một con ngựa trắng phi xuống bờ dốc cạnh cây cầu. Trên lưng ngựa một hiệp sĩ mũ giáp bạc và áo chùng nhung trông xam xám dưới ánh trăng, tuy nhiên Charlie biết áo chùng phải là màu đỏ rực. Chúng thấy ánh thép nhóa lên khi hiệp sĩ tuốt gươm ra và lao vun vút tới chỗ bọn chúng.
Trong khoảng khắc đó, Charlie chỉ nghĩ một điều là bấy nay mình luôn đúng. Hiệp Sĩ Đỏ đó không phải là bạn. Ông ta đã được trao cho thanh gươm bất khả chiến bại mà ông ta luôn rắp tâm sử dụng để chống lại bọn chúng.
Chúng quay đầu chạy, nhưng biết chạy đi đâu bây giờ, do bởi ở đầu phía ấy, một con ngựa khác cũng đang phi hùng hục về phía chúng. Mặt đất rùng rình vì tiếng vó ngựa nện xuống triền sông. Chùm lông chim xám thẳng đơ trên đầu ngựa, và hiệp sĩ ngồi trên lưng con ngựa này lăm lăm một cây thương dài màu nhờn nhợt.
“Trông họ như đá,” Billy kêu re ré.
“Họ là đá,” Charlie thét ầm.
Bị kẹt giữa Hiệp Sĩ Đỏ và hiệp sĩ xám, dòng sông xem ra là nơi duy nhất để tẩu thoát. Charlie đứng sựng, run rẩy trên triền đất ngập ánh trăng, không thể cục cựa, trong khi Asa và Billy đã bò thụp xuống, giật giật áo chùng của Charlie và gào thét cái gì đó không hiểu được. Và rồi, khi cả hai con ngựa lao vào chúng đến nơi, thỉ Hiệp Sĩ Đỏ thét vang “NẰM XUỐNG!”
Charlie nhào xuống đất ngay trước lúc ngựa và người cưỡi lướt qua phía trên nó. Một luồng khí phụt ra từ tấm áo choàng bay phần phật là ấm tới xương nó, khiến nó thôi run tức thì.
Cây thương của hiệp sĩ đá xỉa thẳng vô ngực Hiệp Sĩ Đỏ nhưng, vào khoảng khắc cuối cùng, con ngựa trắng thình lình ngoặc hướng, nhanh hơn tia chớp, Hiệp Sĩ Đỏ phập thanh gươm của mình xuống. Một nhóe sáng đốt cháy theo chiều dài cây thương. Con ngựa đá khiếp vía quay đầu trên tiền sông. Cây thương bị kéo căng ra hết cỡ, rồi bất chợt bay chíu về phía lưng của Hiệp Sĩ Đỏ.
Charlie nghe thấy một tiếng kịch khi ngọn thương đâm trúng mục tiêu. Nhưng Hiệp Sĩ Đỏ không hề loạng choạng trên lưng ngựa. Cây thương nảy bật khỏi tấm áo choàng đỏ của ông, con ngựa trắng nhảy dựng qua bên và Hiệp Sĩ Đỏ chém mạnh cây thương bằng thanh gươm của mình, nhát nữa, nhát nữa, lại nhát nữa.
Một tiếng rắc long trời, và cây thương gãy làm đôi, một đoạn rớt thịch xuống đất. Hiệp sĩ đá thúc ngựa mình húc thẳng vào sườn con ngựa trắng; một tiếng hí đau đớn vang động thinh không khi con ngựa trắng lùi lại, nhưng trong lúc nó chuyển động thì lưỡi gươm của Hiệp Sĩ Đỏ đã phang trúng mũ giáp của hiệp sĩ đá. Đầu hắn đứt lìa, nhưng toàn thân hắn vẫn hoạt động, điên cuồng lia cây thương cụt. Thanh gươm lại xả xuống lần nữa, chẻ hiệp sĩ đá ra làm đôi, chặt cánh tay hắn và chém bay đoạn thương còn lại. Những mẩu đá rơi lịch thịch xuống đất; con ngựa đá lảo đảo vài cái rồi lăn tỏm xuống sông.
Ba thằng bé lồm cồm đứng dậy, vẫn run, mặc dù quần áo chúng đã khô lại, và chúng không còn cảm thấy lạnh nữa. Chúng ngước nhìn chối chết vào Hiệp Sĩ Đỏ và con ngựa của ngài, giờ đứng bất động dưới ánh trăng. Nếu không nhờ hơi bốc ra từ con ngựa trắng, thì cứ tưởng họ đã hóa thành bức tượng.
“Lúc này tôi có thể tự lo cho mình được rồi.” Asa nở nụ cười quai quái trên mặt. “Tốt hơn hai cậu hãy trở về trường đi.”
“Anh có chắc không?” Charlie hỏi.
“Chắc chứ,” Asa nói, khi con ngựa trắng hướng về phía chúng.
Tụi con trai dạt qua bên để con ngựa cùng người cưỡi đi qua. Charlie nghe thấy tiếng da cọ quậy, tiếng áo giáp kêu lách cách, và tiếng thở hì hụi của con ngựa. Hiệp Sĩ Đỏ ngồi thẳng trên yên, thanh gươm của ngài đã được tra vô vỏ, treo lủng lẳng nơi thắt lưng, tấm áo choàng đỏ nằm im che lấy lưng ngài. Ngài dừng lại một thoáng và nhìn xuống bọn chúng. Mũ giáp che khuất mặt ngài, chi còn tia phản chiếu của đôi mắt là thấy được.
Khi con ngựa dấn tiếp, Asa bước đi bên cạnh nó. Charlie và Billy nhìn thân hình cao lêu nghêu của Asa trong chiếc áo choàng dài, và Charlie lầm bầm, “Giờ anh ấy an toàn rồi.”
“Một người an toàn nhất trần đời,” Billy thêm.
Khi chúng leo lên trở lại cửa hầm, Charlie nghĩ mình trông thấy hai bóng người đứng dưới bãi cây: một cao lớn và một bé xíu.
Cuộc hành trình trở lại trường dễ hơn và nhanh hơn bởi vì đường hầm giờ đã sạch trơn nước.
“Luôn nhanh hơn khi ta biết mình đang chờ cái gì,” Charlie nói, khi hích người leo lên chiếc thang sắt, ra khỏi cái hố kinh hoàng. Thế nhưng chúng không hề chờ đợi để thấy điều mà chúng thấy khi ló lên căn phòng dưới lòng nhà hát.
Lúc nãy Charlie không hề trông thấy Manfred ở đâu trong nhà hát, đơn giản là vì hắn núp đằng sau hàng ghế đầu tiên ở khán phòng. Hắn nghe thấy tiếng cửa sập hạ xuống và chờ đợi, cười khẩy một mình, tưởng tượng cảnh Charlie và Billy tự dẫn xác xuống cái hố hắn nhốt thằng người thú. Hắn đặc biệt khoái chí thưởng thức bức tranh hắn tự vẽ trong đầu, khi nghĩ đến dòng nước lụt dìm chết người của Dagbert tuôn vô đường hầm.
Asa sẽ chết đuối, Manfred nói một mình, ta sẽ mất con thú hữu dụng, nhưng không còn cách nào khác. Với việc Billy Raven bị xóa sổ, thì ai thèm quan tâm Lyell Bone có tìm được bản di chúc của Maybell Raven hay không. Còn về Charlie Bone, thằng đó càng biến nhanh chừng nào tốt chừng nấy.
Nhưng Charlie luôn có cách thoát khỏi hiểm nghèo, nên Manfred muốn đảm bảo chắc chắn lần này Charlie đừng hòng sống sót. Rời khỏi chỗ núp, hắn leo lên sân khấu. Trong túi quần hắn có sẵn chiếc chìa khóa để mở ổ khóa cũ trên cửa sập. Hắn sắp sửa bấm ổ khóa lại thì bất chợt cơn tò mò xâm chiếm lấy hắn.
Manfred nâng cửa sập lên và đi xuống phòng phục trang. Dường như nó trống trơn. Tung tẩy ổ khóa trong tay và huýt sáo một mình, Manfred ló đầu qua một trong những cây cột và nheo mắt ngó vô màn đêm. Không có gì. Và rồi, từ xa, hắn nghe thấy tiếng hét kinh hồn của Billy lúc trượt chân ngã xuống đường hầm.
Manfred mỉm cười mãn nguyện. Hắn quay lưng đi và sững sờ chết điếng, mặt đối mặt với Lysander Sage.
“Mày làm gì ở đây?” Manfred quát đùng đùng.
“Đưa ổ khóa cho tôi,” Lysander ra lệnh.
“Đừng hòng tao đưa mày cái gì,” Manfred nhạo báng. “Cút khỏi đây trước khi tao gọi lão Weedon.”
“Tôi chắc chắn là lão Weedon đang chạy lòng vòng thành phố đếm xe thùng màu trắng và tự hỏi cái nào cần theo dõi. Giờ thì, đưa tôi cái ổ khóa đó.”
“Tới mà lấy coi!”
“Được.” Giang hai tay ra, Lysander quay mòng mòng căn phòng, len lõi qua những cái rương bằng da và những giỏ bằng liễu gai. Những bức tường âm vang tiếng ngâm nga bí ẩn và, trong khi Manfred từ từ lùi lại cầu thang, tiếng trống bắt đầu hòa nhịp với giọng của Lysander. Những hình nhân tái xám bắt đầu tràn lấp không gian đen ngòm giữa các cây cột, rồi từ từ mỗi hình nhân ma quái biến thành một người đàn ông cao lớn, da đen. Nhưng cánh tay màu nâu của họ đều đeo vòng vàng, thân hình họ trùm trong áo thụng trắng, ai ai cũng cầm một ngọn giáo dài.
“Ảo ảnh,” Manfred lầm bầm.
“Anh biết thừa là không phải,” Lysander nói. “Họ là tổ tiên của tôi và họ hữu hình như bất kỳ sinh vật nào trong thành phố này.”
Một trong những chiến binh luồn ra sau Manfred, khóa chặt đường tới những bậc thang của hắn.
“Đưa ổ khóa cho tôi,” Lysander chìa bàn tay ra.
Manfred lắc đầu tê liệt. Nắm chặt ổ khóa, hắn bỏ hướng tới cầu thang và nhắm tới lối đi giữa những tủ và rương.
“Thế thì hãy nhận lãnh hậu quả.” Lysander hú lên một tràng dài và những chiến binh đen dồn về phía trước. Khi họ vây sát Manfred, hắn thét lên một tiếng khiếp đảm, đồng thời quăng bừa ổ khóa cho Lysander, rồi vội vàng mở nắp một cái hòm đan bằng liễu gai lên và nhảy tọt vô trong, đóng nắp lại trên đầu.
Lysander bước tới cái hòm và bấm ổ khóa lại. Sau đó, rút chìa khóa ra, anh ngồi trên nóc hòm và đợi.
Sửng sốt trước ánh sáng rực rỡ rọi về phía mình, Charlie và Billy chù chừ trước khi bước qua hàng cột. Và chúng thấy Lysander, bao quanh là những tổ tiên tâm linh cao lớn của anh.
“Cái...” Charlie lắp bắp.
“Suỵt!” Lysander chỉ cái hòm bên dưới mình. Không mở khóa ra, anh đứng dậy và đưa tụi nhỏ lên cầu thang.
Trước khi đóng cửa sập lại, anh khẽ gọi những tổ tiên tâm linh, và mặt anh nở ra một nụ cười tươi rói.
“Chuyện gì thế?” Charlie hỏi.
“Manfred đang định khóa các em lại,” Lysander bảo. “Nhưng anh đã khóa nhốt hắn rồi. Tổ tiên của anh sẽ canh giữ hắn cho tới bình mình.”
Billy nem nép ngó gương mặt điềm nhiên của Lysander. “Nhưng anh ta sẽ tức giận... sẽ... sẽ...”
“Hắn sẽ không làm gì đâu,” Lysander trấn an thằng bé. “Em tưởng hắn muốn lu loa cho tất cả mọi người biết mình đã bị nhốt trong một chiếc hòm và không ngăn được các em trở lại sao? Tin anh đi, hắn quá kiêu ngạo để làm điều đó. Giờ, cho anh biết coi, các em có thành công không?:”
“Rất thành công,” Charlie đáp.
Khi chúng kiễng chân về những phòng ngủ chung của mình, Billy thì thào bằng giọng buồn ngủ. “Sander, em đã thấy Hiệp Sĩ Đỏ và một con ngựa trắng. Và em nghĩ đó là hoàng hậu mà lão Ezekiel đã vô tình làm sống lại.”
“Vậy chắc có lẽ Hiệp Sĩ Đỏ là nhà vua đó,” Lysander bảo.
“Cũng có thể,” Charlie nói.
Ở đầu kia thành phố, trên đường lái xe trở về nhà sau một điệp vụ tối quan trọng, chú Brown đếm thấy có không dưới mười bảy chiếc xe thùng móp méo màu trắng đậu ở những vị trí khác nhau trong thành phố. Chú ghi lại từng vị trí vào sổ tay của mình. “Có gì đó đang xảy ra,” chú lầm bầm. “Trừ phi... đúng rồi. Ảo ảnh.” Chú liền xé bỏ tờ giấy đó đi.
Vừa lúc đó, chiếc xe thùng duy nhất chú không thấy đã phóng ra khỏi thành phố.
Charlie Nhận Được Một Tấm Bưu Ảnh
Vào sáng thứ Ba, có một tâm trạng tò mò bao trùm khắp học viện Bloor. Thậm chí cả bọn trẻ không dính líu gì đến cuộc đào thoát của Asa cũng cảm nhận về một sự thay đổi trong bầu không khí.
Dagbert Endless nằm mẹp trên giường, mặt chi chít những vết cào. Chốc chốc lại rên rỉ về gió máy. Nắm tay nó áp chặt vào má, nhất định không cho ai thấy mình đang cầm cái gì, mặc dù, thỉnh thoảng giữa những ngón tay nó, lại để lộ ra những tia sáng vàng.
“Cứ mặc kệ nó,” bà giám thị bảo. “Nó đang bị ác mộng đấy mà.”
Thế là Dagbert được phép nằm lại giường, một điều chưa từng có đối với đứa trẻ nào trong học viện Bloor
Trong phòng riêng của hắn ở chái phía Tây, Manfred Bloor cũng nằm bẹp dí trên giường. Úp mặt vô tường, lảm nhảm về những chiến binh ma quái.
Lão Ezekiel đích thân lăn xe tới cửa phòng Manfred và gõ. Không có tiếng trả lời. Thấy cửa khóa, lão Ezekiel giật giật tay nắm cửa. “Mày có thành công không?” lão gọi. “Sứ mạng có hoàn thành? Asa đi đời? Charlie đi tong và oắt Billy tiêu ma?”
“Đi đi,” Manfred gầm gừ.
“Thế thì thất bại rồi,” ông cố nội hắn thở dài rồi thiểu não lăn xe đi.
Món trứng được phục vụ trong căng-tin xanh da trời. Charlie không bao giờ nhớ mình đã được chiêu đãi như thế này trong bữa sáng ở trường. Nó đứng ở cuối hàng, cố mở đôi mắt líu díu ra, ngáp rõ to.
Bà bếp trưởng trao phần ăn được thêm ê hề cho Charlie khi nó tiến tới quầy. “Ta đã ù ra ngoài mua trứng đó,” bà nói. “Tại sao bọn trẻ các con không xứng đáng một bữa sáng thịnh soạn cho khác đi?”
“Bà bếp trưởng, trông bà không còn lo lắng nữa,” Charlie nhận xét.
“Ta biết mình không đơn độc.” Bà nhoẻn với nó một nụ cười bí mật, sau đó lôi một vật ra khỏi tạp dề. “Ta tình cờ gặp ngoại Maisie sáng nay. Thật hên ơi là hên. Bà ấy nhờ ta mang cái này cho con.” Bà bếp trưởng nhoài qua quầy và trao cho Charlie một tấm bưu ảnh.
Mặt sau có một con tem nước ngoài và nét chữ viết tay của ba nó. Sau vài dòng về chuyến đi và thời tiết thì tới câu: “Một ngày nào đó ba mẹ sẽ đưa con đi cùng, Charlie, rồi con sẽ tận mắt thấy những sinh vật lộng lẫy đó.”
Ở mặt trước tấm bưu ảnh, hình một cái đuôi cá voi lưng gù choán lấp bầu trời trên mặt biển mênh mông, lấp la lấp lánh.
Nếu con bướm trắng không đi với chúng, Charlie không nghi ngờ gì, chắc hẳn mình và Billy đã té xuống hố chết queo rồi. Những thanh ngang của cái thang mục tơi tả. Có chỗ mất mấy thanh liên tục. Không có ánh sáng dẫn đường thì bảo đảm chúng sẽ trượt chân, mà đường rơi xuống sẽ rất xa, xa thật là xa.
Nhưng cuối cùng chúng cũng lại được đứng trên mặt đất cứng. Ở đáy hố, những bức tường lát đá tảng và đá phiến khổng lồ, và đó kìa, lùm lùm trong bóng tối, có một sinh vật xám gầy giơ xương.
“Asa?” Charlie khẽ hỏi.
Sinh vật đó quay phắt đầu lại. Con mắt vàng nhoé lên kinh hãi trước ánh sáng xa lạ, và nó hộc lên một tiếng rền đục.
“Nó nói gì đó, Billy?” Charlie hỏi.
Billy bóp trán. “Em không biết.”
“Em phải biết.”
“Không biết. Em đã nói với anh hoài mà. Em không còn hiểu được ngôn ngữ của thú nữa.
Cuối cùng giờ mới vỡ lẽ ra. Trước đó Charlie không hỏi chuyện Billy đến nơi đến chốn, bởi vì nó không dám để chính mình tin là Billy bị mất tài phép thuật. “Điều đó có nghĩa là em cũng không thể nói chuyện được với anh ấy?” nó hồi hộp hỏi.
“Đừng nghĩ vậy,” Billy nói, dán tịt mắt vào sinh vật xám.
Bất thần một tiếng rống vang, và, răng nhe ra, con thú đâm xổ vào chúng.
“Asa!” Charlie hét. “Anh không nhận ra em sao?”
Tiếng rống hạ xuống đục rồ rồ. Charlie và Billy dựa chết dí vô tường.
“Cố lên, Billy, cố lên,” Charlie nhắm mắt trong hồn xiêu phách lạc.
Phản ứng của Billy là quăng chiếc mũ nồi ra giữa sàn. Sinh vật gừ và xồ tới gần hơn. Billy quăng tiếp cái quần theo sau chiếc mũ. Sinh vật hít ngửi chúng, nhỏng đầu lên và tru.
“Em nghĩ điều đó có nghĩa là anh ấy không thích chúng,” Billy nói.
“Anh mày còn kén chọn,” Charlie lầu bầu. “Nếu anh mà không thích đôi giày bốt này thì anh sẽ ăn cái mũ trùm đầu của anh luôn.” Chú ý để không làm sinh vật nổi giận, nó quẳng đôi giày bốt nhẹ hều qua một bên.
Sinh vật đi long tong tới đó. Khi nó cào đôi giày bóng loáng, Charlie nhận thấy con vật mới hốc hác tàn tạ làm sao. Từng cái xương sườn trơ lòi ra dưới lớp lông xám thô cứng. Hầu như khắp cơ thể không có lấy một gờ-ram thịt nào.
“Tội nghiệp,” Charlie nói khẽ.
“Em nhớ âm thanh chỉ giày bốt rồi,” Billy thì thào phấn khích, đoạn gừ lên một tiếng nhẹ.
Sinh vật ngước lên. Gừ một tiếng cộc lốc.
“Tốt,” Billy bảo. “Nó nói là ‘tốt’.”
“Em còn nhớ thêm âm thanh nào nữa không?” Charlie hỏi.
“Như cái gì?”
“Ừm, em coi có thể nói với anh ấy tụi mình tới cứu anh ấy, và anh ấy phải mặc đồ vào nhanh nhanh lên, trước khi tụi mình tìm đường hầm ra sông.”
“Charlie, anh ấy không thể mặc đồ được, anh ấy là sói. Mà sói làm sao đi giày?”
Charlie thấy mình khờ hết sức. “Ờ nhỉ,” nó ỉu xìu. “Anh ấy cần nhiều ánh sáng hơn để biến thành người.”
Billy thở hốc lên. “Em quên mất. Em chúa hay quên, nhưng mà, đây!” Billy thọc tay vô túi quần pyjamas và rút ra một cây đèn cầy. Ngọn nến lập tức bùng sáng. “Nến phép thuật của người giám hộ em,” Billy sung sướng. “Em luôn giữ nó bên mình.”
“Dĩ nhiên!” Charlie toét miệng cười. “Anh cũng quên phéng nó luôn. Anh nghĩ nó được việc đấy. Giơ cao lên, Billy.”
Kết hợp ánh sáng từ con bướm trắng và cây nến, trong hố bừng sáng hệt như ban ngày. Con bướm nãy giờ đậu trên đỉnh tảng đá cao nhất, giờ bắt đầu bay lại gần con thú. Lờn vờn giữa hai tai con vật. Thấy một tia sáng mỏng loe loé trên mái đầu xơ xác của mình, con vật táp con bướm. Nhanh như chớp, con bướm thụt xuống đậu trên lưng con vật, tỏa một vệt sáng gắt khắp xương sống nó. Con vật quay mòng lại, rú và tru lên gầm gừ. Không nao núng, con bướm nhỏ lòn vuột qua cái đuôi teo quắt và rồi, không thể tin nổi, nó bay đan xen giữa những cẳng chân của con thú cho tới khi mỗi chân trở thành một cột ánh sáng rực rỡ. Con thú lọng cọng nhấc chân lên, nhưng tiếng gừ lịm đi chỉ còn là tiếng rên phập phều.
“Anh ấy đang biến đổi,” Billy thì thào. “Coi kìa!”
Quả đúng vậy, con thú đang biến hình – một vệt tóc đỏ lưa thưa xuất hiện giữa đôi tai rách tướp. Những đặc điểm dài của sói mờ dần đi, hiện ra một cái trán nhợt nhạt, đôi má người vàng bủng hình thành quanh cái mõm nhọn, rồi tới đôi vai xương xẩu qua lớp lông xám lơ thơ. Cùng với một tiếng thét đột ngột – có thể là tiếng tru kháng cự hay niềm vui sướng – con thú quay lưng lại và nằm bẹp xuống đất.
Vài giây sau, Charlie nhận ra mình đang nhìn trân tráo vào cái lưng của một cậu bé hẳn hoi. Nó liền bước tới, cởi tấm áo khoác dưới áo chùng của mình ra và nhẹ nhàng đắp cho cậu bé.
Một tiếng nấc phụt vang trong hố. Charlie quỳ xuống bên cạnh Asa, vỗ về. “Được rồi, Asa. Tụi em đến giúp anh đây.”
Billy mang cái quần xanh lá cây và đôi giày bốt lại gần. Con bướm trở về chỗ cũ của nó nơi tảng đá. Hình như nó có ý đợi.
Từ từ, Asa đứng lên. Quay lưng về phía chúng, mặc quần và đi giày vào. Khi đã rùng mình tròng chiếc áo khoác xong, anh ta quay mặt lại nhìn Charlie và Billy với nụ cười tươi rói.
“Asa! Anh lại là anh rồi,” Charlie reo mừng.
“Đúng,” Asa nói khàn khàn. Bật ho. “Xin lỗi, cổ họng khô nghét. Chưa hề nói chuyện suốt mấy tuần.”
“Tụi em sẽ đưa anh ra khỏi đây, nhưng tụi mình phải lẹ lên. Có một đường hầm dẫn ra bờ sông. Có người đang đợi để cứu anh. Mẹ anh sẽ ở đó.” Charlie nói nhanh đến nỗi Asa thộn người ra, bối rối.
Charlie nói chậm lại. “Suy đoán của em là đường hầm bắt đầu đằng sau một trong những tảng đá kia.”
“Mẹ tôi khỏe chứ?” Asa lầm bầm.
“Khỏe.” Charlie ngần ngừ rồi vụng về nói, “Em rất tiếc về ba của anh.”
Mặt Asa chợt nhúm nhó lại, thấy vậy Billy vội nói, “Em cá đường hầm ở đằng sau tảng đá cao kia, chỗ con bướm của anh đậu í, Charlie. Em chắc chắn luôn đó.”
“Tụi mình lại coi xem sao.” Charlie đi tới tảng đá và cô dịch dời nó. “Cần phải ba tụi mình mới nổi. Phụ với nào, hai vị.”
Billy tắt nến của nó đi và đút trở vô túi quần. Sau vài phút đẩy và lôi, thở phì phà phì phò, chúng loay hoay dời được tảng đá vài phân khỏi bức tường. Billy nói đúng. Có một lối ra bí mật. Như được tiếp thêm sức, ba thằng đẩy tảng đá thêm vài phân nữa. Giờ thì đủ chỗ cho chúng ép mình chui qua cửa hầm.
Bọn chúng lẳng lặng mà đi. Billy trước, rồi tới Asa. Charlie bước sau cùng, phòng trường hợp anh ta lại mất đi dạng người. Nhưng con bướm trắng dập dềnh bay sát thằng người thú, nhằm bảo đảm ánh sáng cho anh ta giữ nguyên hình hài con người.
Đường hầm này tối đen và bốc mùi mốc hơn đường hầm đầu tiên nhiều. Tất nhiên là nó lạnh lẽo hơn. Charlie và Billy trùm mũ áo chùng lên, còn Asa, hơi lần chần, đội mũ nồi vào. Charlie là đứa đầu tiên nhận ra nước, khi chân Asa bắt đầu lội lóe tóe, bắn những tia nước lạnh toát vào chân Charlie.
“Anh có nghĩ nước sông sẽ tràn vô đường hầm không?” Billy hốt hoảng hỏi.
“Không thể nào,” Charlie đáp. “Đường này ở phía trên dòng sông rất xa,vả lại, tụi mình đang đi lên chứ không phải đi xuống.”
“Nhỡ sông làm lụt hang thì sao?” Billy cố chấp.
“Trời dạo này đâu có mưa,” Charlie nói. Dẫu nói vậy nhưng nó đồng thời nhớ lại cảnh nước sông dâng cuồn cuộn suýt quét chúng khỏi cây cầu. “Dagbert,” nó lầm bầm.
Vài phút sau, nước dâng sấp đầu gối. “Tụi mình phải quay lại thôi,” Billy hét.
Charlie ngoái dòm lại. Đằng sau nó, một dòng nước bùn sình đang tràn vô đường hầm. “Không được rồi. Đằng sau tụi mình nước còn ngập sâu hơn. Lẹ lên, Billy.”
Billy dợm chân chạy, nhưng thoáng cái, nước đã cao hơn đầu gối nó. Sức nước mạnh đến nỗi nó gần như không tiến lên được. “Tụi mình sẽ chết đuối mất,” nó mếu máo.
Asa xuội dựa vô tường. “Tại tôi,” anh van vỉ. “Manfred không bao giờ buông tha tôi. Hắn thà thấy tôi chết còn hơn.”
“Là Dagbert Endless đó,” Charlie cay đắng. “ Tụi mình quyết không để nó đánh bại. Phải chạy tiếp thôi.” Nó vượt qua Asa và chộp lấy tay Billy. “Chúng ta phải giúp nhau. Nào, Asa, nắm lấy tay kia của Billy.”
Chúng lại bắt đầu di chuyển, chậm một cách đau đớn, trong khi con bướm trắng lượn lờ trên đầu, phát ra những tia sáng sống động có tác dụng khích lệ tinh thần bọn chúng. Thế nhưng nó không thể ngăn nước ngừng dâng, và chẳng bao lâu dòng nước xoáy mấp mé eo bọn chúng. Charlie không biết mình còn cách sông bao xa nữa. Có lẽ triền sông đã chìm dưới nước rồi cũng nên. Để rồi ngay khi ló ra, chúng sẽ bị cuốn vô dòng nước lũ.
Khi nước tới vai, Charlie bắt đầu từ bỏ hy vọng.
Xa tuốt bên trên đường hầm, Tancred Torsson đang băng qua sân chơi của học viện Bloor. Cậu vốn rất nhạy cảm với nước trong tất cả mọi trạng thái của nó. Cậu có khả năng bắt mạch thủy triều, nhận biết mưa đang trên đường tới, thậm chí cậu còn biết chắc khi nào nước trút khỏi đám mây nặng nề. Lúc này đây, Tancred biết đích xác là sâu dưới lòng đất, có nước đang tràn lấp một đường hầm cổ xưa. Cậu nghe thấy tiếng nước rùng rùng dưới chân mình, và đoán ra Charlie đang gặp nguy hiểm. Chẳng khó cho Tancred biết dòng nước chết người đó bắt nguồn từ đâu. Ở rìa khu rừng bao quanh lâu đài Vua Đỏ có ánh sáng lân tinh chiếu phừng phực lên khỏi những ngọn cây. Khi tiến tới gần hơn, Tancred bắt gặp Dagbert Endless đang dựa vô một thân cây. Đầu nó ngỏng lên, mắt nhắm tịt, miệng cười cợt.
Tancred xăm xăm tiếp cận thằng bé. “Dừng lại ngay,” cậu ra lệnh.
Dagbert choàng mắt ra. “Ố, là mày.”
“Tao nghe tiếng nước. Mày đang dìm chết tụi chúng. Dẹp ngay.”
“Sao phải dẹp?” Dagbert sừng sộ. “Tao đang thưởng thức thời huy hoàng của cuộc đời tao.”
“Không còn nữa.” Tancred tung áo chùng của mình thành một hình vòng cung rộng màu xanh lá cây.
“Mày định làm gì?” Dagbert ngờ vực hỏi.
Một luồng khí băng giá cuốn nó xoay tít rời xa cái cây. “Thôi!” nó thét gào đúng lúc một cơn gió mạnh hất hai chân nó hổng khỏi mặt đất. Tức thì dòng sinh vật nhỏ vàng óng tuột khỏi túi nó khi nó bị úp ngược xuống, quơ quào không khí.
Dấn người tới trước, Tancred chụp lấy những sinh vật nhỏ tí.
“Không!” Dagbert hét.
Tancred lùi lại và để cho thằng bé đâm sầm xuống đất. Dagbert nằm cứng đờ một hồi, sau đó bắt đầu run như giẽ. Mặt nó bắt đầu nhóa lên thứ ánh sáng xanh lá cây bệnh hoạn, hai bàn tay nó phát sáng và một quầng sáng dạ quang chiếu xuyên qua quần áo nó. Cơn run không sao kiểm soát được.
“Trả... sinh... vật... biển... cho... tao,” Dagbert láp ngáp.
“Cái này á?” Tancred bốc chuyển chúng từ tay này qua tay kia. “Tao không nghĩ thế.”
“Tàn ác!” Dagbert rống lên.
“Dừng nước lại!”
“K-h-ô-n-g!”
Tancred giơ cao bàn tay nắm chặt lên và Dagbert bay vút qua khu rừng. Những cành sắc đâm rách áo quần nó, cào toạc mặt nó, gai mắc vào tóc nó và những cành trụi lột sạch giày nó. Lúc nó rơi tòm xuống đất lần thứ hai, cơn run trở nên dữ dội đến mức người nó giãy đành đạch dưới đất. “Trả tao...” nó khều khào.
Tancred bước tới bên thằng bé phát sáng. “Tao sẽ chẳng trả mày cái gì đến chừng nào mày ngưng nước lại.”
Im lặng thật lâu, sau đó, tiếng thở dài, Dagbert nhắm mắt lại và vấn tay xuống đất.
Tancred bắt đầu cảm thấy một sự thay đổi nơi mặt đất dưới chân mình. Cậu nhìn Dagbert và chờ đợi. Vẫn run cầm cập, Dagbert cắm những ngón tay xuống sâu nữa, sâu nữa xuống mặt đất. Cuối cùng bằng giọng run bắn, nó vọt ra lời “Xong!”
“Hừm, tao sẽ không cảm ơn mày đâu.” Tancred quay ngoắt đi.
“Làm ơ-n,” Dagbert rên rỉ.
“Những sinh vật vàng óng của mày? Đến mà lấy chúng đi này.” Tancred rải những con cá bé xíu và những con cua vàng xuống bãi cỏ cao làm lằn ranh của khu rừng. Nhưng cậu đút con nhím biển vô túi quần. Dành cho những cuộc đối đầu sau này, cậu nhủ thầm. Hòa mình vào bóng tối đen đặc, cậu lần đường trở lại trường. Trước đó cậu phát hiện thấy một luồng sáng ở trên lầu trên cùng của tòa nhà và không muốn làm gì liều lĩnh cả.
Lão Ezekiel đã chứng kiến toàn cảnh đó từ trên cửa sổ gác mái cao vọi của lão. Có điều, vì không biết là Dagbert không ở một mình trong rừng, lão ấn tượng quá trời trước những màu sắc chói rực bốc cuồn cuộn lên khỏi ngọn cây.
“Bắc cực quang của riêng chúng ta,” lão cười khục khục. “Giỏi lắm, Dagbert Endless.”
Trong đường hầm, sâu bên dưới cánh rừng, Charlie cảm thấy dòng nước bắt đầu yếu đi.
“Nó đang rút,” Asa hổn hển.
Chẳng mấy chốc bọn chúng thấy bùn sình trở lại dưới chân mình. Vài phút sau chúng đã bước đi trên nền gạch ướt lấp xấp. Dòng lũ chỉ còn là những gợn nước lăn tăn.
“Làm sao lại có chuyện này được?” Billy nói.
“Anh nghĩ Tancred đã ra tay đấy.” Charlie cười toe ngước nhìn mái trần rêu phủ.
Bây giờ chúng đang đi lên một con dốc nghiêng. Xa tít bên trên, Charlie có thể thấy vầng trăng và, dẫu bị té ạch đụi mấy lần xuống nền gạch trơn trợt, mặt trăng tưới lên chúng một niềm hy vọng tươi mới và, phớt lờ quần áo ướt sũng và tay chân trầy trụa, chúng hăng hái bò lên, cho tới khi từng đứa một, lăn tòm vô một bãi cây nhỏ bên cạnh triền sông. Một làn gió mạnh đã thổi bạt mây khỏi bầu trời, để lại vạn vật tắm đẫm trong ánh trăng.
“Chúng ta tới rồi!” Charlie hét to, lăn xuống bờ dốc.
Bọn kia lăn theo. Asa thậm chí còn cười rúc rích. Trông bộ dạng anh ta thật quái với mái tóc đỏ thòi lòi dưới mũ nồi, và áo khoác dài tráng kín bùn.
Giờ chúng đã tới đây, đủ cả ba đứa, run lập cập vì ướt và lạnh, và Charlie muốn chắc chắn Asa đến được chiếc xe thùng của ông Bartholomew. Chúng chạy dọc theo dải đất cho tới khi cây cầu hiện ra trong tầm mắt, và đó kìa, thấy nhô lên khỏi bức tường đá, là một chiếc xe thùng màu trắng.
“Asa,” Charlie chỉ cây cầu, “Thấy chiếc xe thùng màu trắng đó không? Mẹ anh ở trong đó, đang chờ anh đó.”
Nó chưa dứt lời, cả bọn bỗng cảm thấy mặt đất rung chuyển. Có tiếng rập cà rập từ xa dội đến tai chúng; lúc tiếng động lớn dần lên thì một con ngựa trắng phi xuống bờ dốc cạnh cây cầu. Trên lưng ngựa một hiệp sĩ mũ giáp bạc và áo chùng nhung trông xam xám dưới ánh trăng, tuy nhiên Charlie biết áo chùng phải là màu đỏ rực. Chúng thấy ánh thép nhóa lên khi hiệp sĩ tuốt gươm ra và lao vun vút tới chỗ bọn chúng.
Trong khoảng khắc đó, Charlie chỉ nghĩ một điều là bấy nay mình luôn đúng. Hiệp Sĩ Đỏ đó không phải là bạn. Ông ta đã được trao cho thanh gươm bất khả chiến bại mà ông ta luôn rắp tâm sử dụng để chống lại bọn chúng.
Chúng quay đầu chạy, nhưng biết chạy đi đâu bây giờ, do bởi ở đầu phía ấy, một con ngựa khác cũng đang phi hùng hục về phía chúng. Mặt đất rùng rình vì tiếng vó ngựa nện xuống triền sông. Chùm lông chim xám thẳng đơ trên đầu ngựa, và hiệp sĩ ngồi trên lưng con ngựa này lăm lăm một cây thương dài màu nhờn nhợt.
“Trông họ như đá,” Billy kêu re ré.
“Họ là đá,” Charlie thét ầm.
Bị kẹt giữa Hiệp Sĩ Đỏ và hiệp sĩ xám, dòng sông xem ra là nơi duy nhất để tẩu thoát. Charlie đứng sựng, run rẩy trên triền đất ngập ánh trăng, không thể cục cựa, trong khi Asa và Billy đã bò thụp xuống, giật giật áo chùng của Charlie và gào thét cái gì đó không hiểu được. Và rồi, khi cả hai con ngựa lao vào chúng đến nơi, thỉ Hiệp Sĩ Đỏ thét vang “NẰM XUỐNG!”
Charlie nhào xuống đất ngay trước lúc ngựa và người cưỡi lướt qua phía trên nó. Một luồng khí phụt ra từ tấm áo choàng bay phần phật là ấm tới xương nó, khiến nó thôi run tức thì.
Cây thương của hiệp sĩ đá xỉa thẳng vô ngực Hiệp Sĩ Đỏ nhưng, vào khoảng khắc cuối cùng, con ngựa trắng thình lình ngoặc hướng, nhanh hơn tia chớp, Hiệp Sĩ Đỏ phập thanh gươm của mình xuống. Một nhóe sáng đốt cháy theo chiều dài cây thương. Con ngựa đá khiếp vía quay đầu trên tiền sông. Cây thương bị kéo căng ra hết cỡ, rồi bất chợt bay chíu về phía lưng của Hiệp Sĩ Đỏ.
Charlie nghe thấy một tiếng kịch khi ngọn thương đâm trúng mục tiêu. Nhưng Hiệp Sĩ Đỏ không hề loạng choạng trên lưng ngựa. Cây thương nảy bật khỏi tấm áo choàng đỏ của ông, con ngựa trắng nhảy dựng qua bên và Hiệp Sĩ Đỏ chém mạnh cây thương bằng thanh gươm của mình, nhát nữa, nhát nữa, lại nhát nữa.
Một tiếng rắc long trời, và cây thương gãy làm đôi, một đoạn rớt thịch xuống đất. Hiệp sĩ đá thúc ngựa mình húc thẳng vào sườn con ngựa trắng; một tiếng hí đau đớn vang động thinh không khi con ngựa trắng lùi lại, nhưng trong lúc nó chuyển động thì lưỡi gươm của Hiệp Sĩ Đỏ đã phang trúng mũ giáp của hiệp sĩ đá. Đầu hắn đứt lìa, nhưng toàn thân hắn vẫn hoạt động, điên cuồng lia cây thương cụt. Thanh gươm lại xả xuống lần nữa, chẻ hiệp sĩ đá ra làm đôi, chặt cánh tay hắn và chém bay đoạn thương còn lại. Những mẩu đá rơi lịch thịch xuống đất; con ngựa đá lảo đảo vài cái rồi lăn tỏm xuống sông.
Ba thằng bé lồm cồm đứng dậy, vẫn run, mặc dù quần áo chúng đã khô lại, và chúng không còn cảm thấy lạnh nữa. Chúng ngước nhìn chối chết vào Hiệp Sĩ Đỏ và con ngựa của ngài, giờ đứng bất động dưới ánh trăng. Nếu không nhờ hơi bốc ra từ con ngựa trắng, thì cứ tưởng họ đã hóa thành bức tượng.
“Lúc này tôi có thể tự lo cho mình được rồi.” Asa nở nụ cười quai quái trên mặt. “Tốt hơn hai cậu hãy trở về trường đi.”
“Anh có chắc không?” Charlie hỏi.
“Chắc chứ,” Asa nói, khi con ngựa trắng hướng về phía chúng.
Tụi con trai dạt qua bên để con ngựa cùng người cưỡi đi qua. Charlie nghe thấy tiếng da cọ quậy, tiếng áo giáp kêu lách cách, và tiếng thở hì hụi của con ngựa. Hiệp Sĩ Đỏ ngồi thẳng trên yên, thanh gươm của ngài đã được tra vô vỏ, treo lủng lẳng nơi thắt lưng, tấm áo choàng đỏ nằm im che lấy lưng ngài. Ngài dừng lại một thoáng và nhìn xuống bọn chúng. Mũ giáp che khuất mặt ngài, chi còn tia phản chiếu của đôi mắt là thấy được.
Khi con ngựa dấn tiếp, Asa bước đi bên cạnh nó. Charlie và Billy nhìn thân hình cao lêu nghêu của Asa trong chiếc áo choàng dài, và Charlie lầm bầm, “Giờ anh ấy an toàn rồi.”
“Một người an toàn nhất trần đời,” Billy thêm.
Khi chúng leo lên trở lại cửa hầm, Charlie nghĩ mình trông thấy hai bóng người đứng dưới bãi cây: một cao lớn và một bé xíu.
Cuộc hành trình trở lại trường dễ hơn và nhanh hơn bởi vì đường hầm giờ đã sạch trơn nước.
“Luôn nhanh hơn khi ta biết mình đang chờ cái gì,” Charlie nói, khi hích người leo lên chiếc thang sắt, ra khỏi cái hố kinh hoàng. Thế nhưng chúng không hề chờ đợi để thấy điều mà chúng thấy khi ló lên căn phòng dưới lòng nhà hát.
Lúc nãy Charlie không hề trông thấy Manfred ở đâu trong nhà hát, đơn giản là vì hắn núp đằng sau hàng ghế đầu tiên ở khán phòng. Hắn nghe thấy tiếng cửa sập hạ xuống và chờ đợi, cười khẩy một mình, tưởng tượng cảnh Charlie và Billy tự dẫn xác xuống cái hố hắn nhốt thằng người thú. Hắn đặc biệt khoái chí thưởng thức bức tranh hắn tự vẽ trong đầu, khi nghĩ đến dòng nước lụt dìm chết người của Dagbert tuôn vô đường hầm.
Asa sẽ chết đuối, Manfred nói một mình, ta sẽ mất con thú hữu dụng, nhưng không còn cách nào khác. Với việc Billy Raven bị xóa sổ, thì ai thèm quan tâm Lyell Bone có tìm được bản di chúc của Maybell Raven hay không. Còn về Charlie Bone, thằng đó càng biến nhanh chừng nào tốt chừng nấy.
Nhưng Charlie luôn có cách thoát khỏi hiểm nghèo, nên Manfred muốn đảm bảo chắc chắn lần này Charlie đừng hòng sống sót. Rời khỏi chỗ núp, hắn leo lên sân khấu. Trong túi quần hắn có sẵn chiếc chìa khóa để mở ổ khóa cũ trên cửa sập. Hắn sắp sửa bấm ổ khóa lại thì bất chợt cơn tò mò xâm chiếm lấy hắn.
Manfred nâng cửa sập lên và đi xuống phòng phục trang. Dường như nó trống trơn. Tung tẩy ổ khóa trong tay và huýt sáo một mình, Manfred ló đầu qua một trong những cây cột và nheo mắt ngó vô màn đêm. Không có gì. Và rồi, từ xa, hắn nghe thấy tiếng hét kinh hồn của Billy lúc trượt chân ngã xuống đường hầm.
Manfred mỉm cười mãn nguyện. Hắn quay lưng đi và sững sờ chết điếng, mặt đối mặt với Lysander Sage.
“Mày làm gì ở đây?” Manfred quát đùng đùng.
“Đưa ổ khóa cho tôi,” Lysander ra lệnh.
“Đừng hòng tao đưa mày cái gì,” Manfred nhạo báng. “Cút khỏi đây trước khi tao gọi lão Weedon.”
“Tôi chắc chắn là lão Weedon đang chạy lòng vòng thành phố đếm xe thùng màu trắng và tự hỏi cái nào cần theo dõi. Giờ thì, đưa tôi cái ổ khóa đó.”
“Tới mà lấy coi!”
“Được.” Giang hai tay ra, Lysander quay mòng mòng căn phòng, len lõi qua những cái rương bằng da và những giỏ bằng liễu gai. Những bức tường âm vang tiếng ngâm nga bí ẩn và, trong khi Manfred từ từ lùi lại cầu thang, tiếng trống bắt đầu hòa nhịp với giọng của Lysander. Những hình nhân tái xám bắt đầu tràn lấp không gian đen ngòm giữa các cây cột, rồi từ từ mỗi hình nhân ma quái biến thành một người đàn ông cao lớn, da đen. Nhưng cánh tay màu nâu của họ đều đeo vòng vàng, thân hình họ trùm trong áo thụng trắng, ai ai cũng cầm một ngọn giáo dài.
“Ảo ảnh,” Manfred lầm bầm.
“Anh biết thừa là không phải,” Lysander nói. “Họ là tổ tiên của tôi và họ hữu hình như bất kỳ sinh vật nào trong thành phố này.”
Một trong những chiến binh luồn ra sau Manfred, khóa chặt đường tới những bậc thang của hắn.
“Đưa ổ khóa cho tôi,” Lysander chìa bàn tay ra.
Manfred lắc đầu tê liệt. Nắm chặt ổ khóa, hắn bỏ hướng tới cầu thang và nhắm tới lối đi giữa những tủ và rương.
“Thế thì hãy nhận lãnh hậu quả.” Lysander hú lên một tràng dài và những chiến binh đen dồn về phía trước. Khi họ vây sát Manfred, hắn thét lên một tiếng khiếp đảm, đồng thời quăng bừa ổ khóa cho Lysander, rồi vội vàng mở nắp một cái hòm đan bằng liễu gai lên và nhảy tọt vô trong, đóng nắp lại trên đầu.
Lysander bước tới cái hòm và bấm ổ khóa lại. Sau đó, rút chìa khóa ra, anh ngồi trên nóc hòm và đợi.
Sửng sốt trước ánh sáng rực rỡ rọi về phía mình, Charlie và Billy chù chừ trước khi bước qua hàng cột. Và chúng thấy Lysander, bao quanh là những tổ tiên tâm linh cao lớn của anh.
“Cái...” Charlie lắp bắp.
“Suỵt!” Lysander chỉ cái hòm bên dưới mình. Không mở khóa ra, anh đứng dậy và đưa tụi nhỏ lên cầu thang.
Trước khi đóng cửa sập lại, anh khẽ gọi những tổ tiên tâm linh, và mặt anh nở ra một nụ cười tươi rói.
“Chuyện gì thế?” Charlie hỏi.
“Manfred đang định khóa các em lại,” Lysander bảo. “Nhưng anh đã khóa nhốt hắn rồi. Tổ tiên của anh sẽ canh giữ hắn cho tới bình mình.”
Billy nem nép ngó gương mặt điềm nhiên của Lysander. “Nhưng anh ta sẽ tức giận... sẽ... sẽ...”
“Hắn sẽ không làm gì đâu,” Lysander trấn an thằng bé. “Em tưởng hắn muốn lu loa cho tất cả mọi người biết mình đã bị nhốt trong một chiếc hòm và không ngăn được các em trở lại sao? Tin anh đi, hắn quá kiêu ngạo để làm điều đó. Giờ, cho anh biết coi, các em có thành công không?:”
“Rất thành công,” Charlie đáp.
Khi chúng kiễng chân về những phòng ngủ chung của mình, Billy thì thào bằng giọng buồn ngủ. “Sander, em đã thấy Hiệp Sĩ Đỏ và một con ngựa trắng. Và em nghĩ đó là hoàng hậu mà lão Ezekiel đã vô tình làm sống lại.”
“Vậy chắc có lẽ Hiệp Sĩ Đỏ là nhà vua đó,” Lysander bảo.
“Cũng có thể,” Charlie nói.
Ở đầu kia thành phố, trên đường lái xe trở về nhà sau một điệp vụ tối quan trọng, chú Brown đếm thấy có không dưới mười bảy chiếc xe thùng móp méo màu trắng đậu ở những vị trí khác nhau trong thành phố. Chú ghi lại từng vị trí vào sổ tay của mình. “Có gì đó đang xảy ra,” chú lầm bầm. “Trừ phi... đúng rồi. Ảo ảnh.” Chú liền xé bỏ tờ giấy đó đi.
Vừa lúc đó, chiếc xe thùng duy nhất chú không thấy đã phóng ra khỏi thành phố.
Charlie Nhận Được Một Tấm Bưu Ảnh
Vào sáng thứ Ba, có một tâm trạng tò mò bao trùm khắp học viện Bloor. Thậm chí cả bọn trẻ không dính líu gì đến cuộc đào thoát của Asa cũng cảm nhận về một sự thay đổi trong bầu không khí.
Dagbert Endless nằm mẹp trên giường, mặt chi chít những vết cào. Chốc chốc lại rên rỉ về gió máy. Nắm tay nó áp chặt vào má, nhất định không cho ai thấy mình đang cầm cái gì, mặc dù, thỉnh thoảng giữa những ngón tay nó, lại để lộ ra những tia sáng vàng.
“Cứ mặc kệ nó,” bà giám thị bảo. “Nó đang bị ác mộng đấy mà.”
Thế là Dagbert được phép nằm lại giường, một điều chưa từng có đối với đứa trẻ nào trong học viện Bloor
Trong phòng riêng của hắn ở chái phía Tây, Manfred Bloor cũng nằm bẹp dí trên giường. Úp mặt vô tường, lảm nhảm về những chiến binh ma quái.
Lão Ezekiel đích thân lăn xe tới cửa phòng Manfred và gõ. Không có tiếng trả lời. Thấy cửa khóa, lão Ezekiel giật giật tay nắm cửa. “Mày có thành công không?” lão gọi. “Sứ mạng có hoàn thành? Asa đi đời? Charlie đi tong và oắt Billy tiêu ma?”
“Đi đi,” Manfred gầm gừ.
“Thế thì thất bại rồi,” ông cố nội hắn thở dài rồi thiểu não lăn xe đi.
Món trứng được phục vụ trong căng-tin xanh da trời. Charlie không bao giờ nhớ mình đã được chiêu đãi như thế này trong bữa sáng ở trường. Nó đứng ở cuối hàng, cố mở đôi mắt líu díu ra, ngáp rõ to.
Bà bếp trưởng trao phần ăn được thêm ê hề cho Charlie khi nó tiến tới quầy. “Ta đã ù ra ngoài mua trứng đó,” bà nói. “Tại sao bọn trẻ các con không xứng đáng một bữa sáng thịnh soạn cho khác đi?”
“Bà bếp trưởng, trông bà không còn lo lắng nữa,” Charlie nhận xét.
“Ta biết mình không đơn độc.” Bà nhoẻn với nó một nụ cười bí mật, sau đó lôi một vật ra khỏi tạp dề. “Ta tình cờ gặp ngoại Maisie sáng nay. Thật hên ơi là hên. Bà ấy nhờ ta mang cái này cho con.” Bà bếp trưởng nhoài qua quầy và trao cho Charlie một tấm bưu ảnh.
Mặt sau có một con tem nước ngoài và nét chữ viết tay của ba nó. Sau vài dòng về chuyến đi và thời tiết thì tới câu: “Một ngày nào đó ba mẹ sẽ đưa con đi cùng, Charlie, rồi con sẽ tận mắt thấy những sinh vật lộng lẫy đó.”
Ở mặt trước tấm bưu ảnh, hình một cái đuôi cá voi lưng gù choán lấp bầu trời trên mặt biển mênh mông, lấp la lấp lánh.
Danh sách chương