Anh vốn
tưởng cô định hỏi chuyện căn nhà kia, nhưng kết quả nằm ngoài dự đoán, không
phải vậy.
Cô và Thiệu Chấn Vinh từng nhận giúp đỡ vài đứa trẻ nghèo trong một trường học ở ngoài đảo. Bọn trẻ rất ngoan, tháng nào cũng viết thư cho họ. Tết vừa rồi bọn trẻ gửi thư đến, xin cô và Thiệu Chấn Vinh gửi cho chúng một tấm ảnh và rất hy vọng được gặp cô và anh. Lúc ấy cô và Thiệu Chấn Vinh nói trong thư hồi âm, rằng đợi khi chú Tiểu Thiệu nghỉ phép, nhất định sẽ đến thăm chúng ta, mang theo máy chụp hình, chụp thật nhiều hình rồi chờ bọn trẻ lớn lên xem lại.
“Có thể cùng tôi đi thăm bọn trẻ không, chỉ một lần thôi, sẽ không mất nhiều thời gian của anh, anh rất giống Chấn Vinh, bọn trẻ sẽ không biết đâu…”, cô thì thầm, “Tôi thật sự không biết phải nói thế nào với chúng…nếu tôi nói Chấn Vinh không còn nữa… những lời tàn nhẫn như vậy, ngay đến bản thân tôi còn không thể chấp nhận…”, cô cúi đầu nhưng không khóc, khóe miệng còn kiên cường khẽ nhếch lên, tạo thành một nét cười thê lương.
Anh nhìn cô: “Cô cũng ôm đồm nhiều việc quá đấy”.
“Chúng tôi vốn định bảo trợ chúng đến tận đại học, nhưng bây giờ… dù sao tôi cũng quyết định sẽ giúp chúng học tiếp”, cô ngẩng lên nhìn anh, “Chỉ phiền anh một lần này thôi, tôi đảm bảo sau này sẽ không phiền anh nữa, đây là lần cuối cùng”.
Đôi mắt đen láy nhìn anh, nhưng không phải là ánh mắt cầu khẩn, cũng không có vẻ đáng thương, đôi mắt mang luồng sáng trong vắt, đôi mắt chỉ đơn thuần tìm kiếm sự giúp đỡ. Vốn dĩ anh cảm thấy cô đáng thương, nhưng có lúc cô lại khiến anh vô cùng bất ngờ.
Anh lặng im không đáp.
Cả đi và về trong ba ngày có chút mệt, nhưng thời gian như vậy chỉ cần cố gắng chút cũng đủ rồi. Đỗ Hiểu Tô không mang nhiều hành lý, nhưng lại mua khá hiều dụng cụ học tập như giấy bút, sách tham khảo, không ngờ cũng chất đầy túi du lịch lớn. Khi xuống máy bay lại còn phải chuyển xe giữa trời mưa xối xả, hành trình rất cực khổ, đường xá gập ghềnh, còn phải qua hai lần thay lốp. Đến gần biển thì trời đã tối, sau đó phải lên thuyền mới ra được đảo. Trời đang mưa, sóng rất lớn mà thuyền lại nhỏ, cô bị say sóng, nôn khá nhiều, nên chỉ có thể quỳ trên thuyền không dám đứng lên. Anh đưa cho cô chai nước, vì thường xuyên ra biển câu cá nên anh thích ứng khá nhanh. Cô quỳ trên thuyền, nắm chặt dây thừng, nôn lên nôn xuống, vô cùng mệt mỏi nhưng cũng không hỏi bao giờ đến.
Sự quật cường này của cô cũng có phần giống Chấn Vinh.
Mãi lâu sau thuyền mới đến nơi, có lẽ đây là lần đầu tiên cô ngồi thuyền qua biển, chân chạm đất rồi mà vẫn còn loạng choạng không vững, tựa như mặt đất cũng đang rung động như trên biển. Trên cầu có một ngọn đèn chiếu sáng những hạt mưa đang rơi, quay đầu lại nhìn mặt biển cách đó không xa mang một màu đen ánh.
Bọn trẻ cầm theo đèn biển, dưới sự chỉ dẫn của thầy giáo đứng ở cầu đón họ.
Thầy giáo họ Tôn, tuổi còn trẻ, thật ra cũng chỉ là một cậu trai trẻ chừng mười tám, mười chín tuổi nên gặp họ cũng có phần ngượng ngùng, chỉ tranh xách hành lý.
Có một đứa trẻ kêu lên: “Chú Tiểu Thiệu !”. Đỗ Hiểu Tô giật mình, quay đầu lại nhìn thấy anh cười đáp lại, còn đưa tay xoa đầu đứa nhóc, Đỗ Hiểu Tô thở phào nhẹ nhõm. Bọn trẻ bắt đầu cười nói như một tổ chim nhỏ vô cùng náo nhiệt. Mấy cô bé gọi Đỗ Hiểu Tô: “Chị Hiểu Tô!”. Một cô bé lớn hơn nhón chân, định giúp Đỗ Hiểu Tô che dù, thấy cô bé như thế, Lôi Vũ Tranh đeo ba lô lên lưng, đưa tay ra nhận lấy cái dù: “Để anh”.
Trên đường đi Đỗ Hiểu Tô rất trầm lặng, sau khi Thiệu Chấn Vinh gặp nạn cô vẫn luôn như vậy, chỉ khi nói chuyện với bọn trẻ, cô mới có vẻ hoạt bát hơn một chút: “Bốn phía đều là biển, chúng tôi chắc chắn sẽ không đi lạc đâu, trời mưa thế này còn ra đón chúng tôi làm gì?”.
Thầy Tôn vẫn rất ngại ngần nói: “Hôm qua nhận được điện thoại nói hai người sẽ đến, học sinh cứ bàn tán cả ngày trời, rồi đứa nào cũng nhất định đòi đi đón, tôi không khuyên được. Vả lại hai người từ xa đến đây, chúng tôi cũng nên đi”. Chiếc dù rất nhỏ mà mưa bắt đầu nặng hạt, có một cô bé nói chân thành: “Chị Hiểu Tô, chị xem chú Tiểu Thiệu ướt hết rồi.”, thì ra dù trong tay anh nghiêng hết sang phía cô. Đỗ Hiểu Tô ngẩng người, còn anh vẫn để mặc một bên vai ướt đẫm, cô không biết phải làm sao mới được, cuối cùng do dự một lát, đưa tay giữ lấy cánh tay đang cầm ô của anh.
Mấy đứa trẻ cười khúc khích, có vẻ rất vui khi nhìn thấy hai người thân thiết như vậy.
Trường học được xây ở lưng chừng núi, đường lên núi ngoằn ngoèo uốn lượn khó đi, hầu như đi bước nào trượt bước đó. Khó khăn lắm mới đến được kí túc xá học sinh, mọi người gần như đều ướt hết. Cái gọi là kí túc xá học sinh thật ra chỉ là một căn phòng khá lớn. Giữa phòng là một tấm gỗ, trên đầu tấm gỗ có ngọn đèn vàng mờ mờ. Thầy Tôn ngại ngần nói: “Chúng tôi có máy phát điện…”, lời chưa dứt, đèn đã vụt tắt.
Bọn trẻ bật cười, thầy Tôn đứng trong bóng tối đang ảo não, nhưng vẫn mắng yêu: “Còn cười”.
Mấy đứa trẻ lại cười ầm lên, thầy Tôn nói: “Năm ngoái mua một cái máy phát điện cũ, chẳng may bị hỏng, trên đảo lại không có người sửa…”.
Lôi Vũ Tranh bật máy lửa lên, tìm được đèn pin trong ba lô, thầy Tôn cũng tìm được nến, nói: “Tôi xuống bếp đun nước, bạn trẻ cũng chưa tắm, ướt thế này dễ cảm lạnh”.
Lôi Vũ Tranh hỏi: “Máy phát điện ở đâu? Tôi đi xem thử”. Đỗ Hiểu Tô hình như cảm thấy lạ nên đưa mắt nhìn anh, anh không nói gì nữa.
Thầy Tôn dẫn anh đến chỗ máy phát điện. Lôi Vũ Tranh cởi áo khoác, rồi xắn tay áo, kiểm tra kỹ lưỡng: “Hỏng cũng không nặng lắm”.
Vì thầy Tôn phải đi đun nước, nên Đỗ Hiểu Tô cầm đèn pin soi giúp Lôi Tranh Vũ sửa máy phát. Nhiều năm rồi anh không đụng đến máy phát điện, lần trước chỉ là ở trong phòng thí nghiệm của trường. Cũng may anh vẫn chưa quên nguyên lý cơ bản, dây điện cũng không phức tạp lắm. Vì góc độ chiếu sáng của đèn pin có hạn, đứng xa một chút sợ rằng không đủ sáng, vậy nên Đỗ Hiểu Tô cúi xuống bên cạnh anh, hai người gần như chạm đầu vào nhau, phải như vậy anh mới nhìn thấy rõ các linh kiện bên trong. Khoảng cách gần, hơi thở của cô nhẹ nhàng thoảng bên tai, khiến vành tai anh tự nhiên nóng bừng lên. Hơi thở còn có hương thơm nhàn nhạt, không phải là nước hoa. Anh nghi ngờ đây là ảo giác, bởi mùi dầu đốt rất nồng, lẽ ra không còn ngửi thấy gì khác mới đúng.
Vật lộn nửa giờ đồng hồ, tay dính đầy dầu, máy phát điện cuối cùng cũng làm việc trở lại, đèn trong phòng bật sáng, bọn trẻ reo lên sung sướng.
Vào trong nhà, bọn trẻ tranh nhau nói: “Chú Tiểu Thiệu giỏi thật!”.
“Chú Tiểu Thiệu là bác sĩ!”
“Biết chữa bệnh còn biết sửa máy phát điện!”
“Lớn lên cháu cũng muốn giống chú Tiểu Thiệu !”
Cô cũng quay lại mỉm cười, ánh đèn vàng vọt chiếu lên khuôn mặt, hai má hơi ửng hồng: “Tôi đi lấy nước cho anh rửa tay”.
Không đợi anh nói gì thêm, cô đã đi ra bếp rồi.
Thầy Tôn đun một nồi nước lớn, cô múc một gáo, pha thành nước ấm cho anh rửa tay, sau đó giúp thầy Tôn gọi bọn trẻ đi tắm. Mấy đứa trẻ đều là con cái ngư dân quanh vùng, tập trung trên đảo này học, vì khoảng cách giữa các đảo khá lớn nên có nhiều học sinh một tháng chỉ có thể về nhà có một lần. Từ việc học hành đến sinh hoạt ăn uống đều do thầy Tôn lo liệu. Cũng may mắn bọn trẻ rất ngoan, tự mình lấy chậu, chia nước, xếp hàng đi tắm.
Thầy Tôn nhường phòng cho họ, còn mình ngủ chung với học sinh, nụ cười vẫn ngại ngần như thế: “Dầu tăng giá rồi, máy phát điện chỉ dùng được một lúc thôi, đi ngủ sớm đi”.
Lôi Vũ Tranh cũng hơi khó xử, cũng may thầy Tôn cũng thấy ngại, đặt hai bình nước nóng xuống đất, gãi gãi đầu rồi nhanh chóng rời đi.
Anh khóa cửa, mở ba lô lấy túi ngủ và mền ra: “Cô ngủ trên giường đi!”
Cô nhìn chiếc giường đơn, thầy Tôn đã thu dọn sẵn, chăn gối rất sạch sẽ, cô nói: “Tôi ngủ dưới đất”. Tuy đây là trên núi nhưng vẫn là ngoài đảo, hơn nữa trời đang mưa, mặt đất rất ẩm ướt.
Anh nói: “Không sao, khi còn leo núi tôi vẫn thường ngủ lều”, anh đưa cho cô túi ngủ còn lại, “Cô cần không? Tối sẽ rất lạnh đấy”.
Rửa mặt rửa tay xong, anh liền chui vào túi ngủ. Tiếng mưa ào ào, căn phòng chẳng khác nào một con thuyền, còn nghe được cả tiếng sóng biển phía xa xa, lúc này trong phòng chỉ có một ngọn đèn nhỏ. Dù sao cũng lặn lội cả ngày trời, nên cơn mệt mỏi nhanh chóng ập đến. Cô quay người, trong chốc lát đã nghe thấy hơi thở đều đặn.
Không lâu sau, tim đèn trong đèn lập lòe nhỏ dần rồi tắt.
Có lẽ chút dầu thắp ít ỏi đã hết.
Không biết vì sao anh không ngủ được, có lẽ vì tiếng mưa gió và sóng biển bên ngoài, cũng có thể vì lạ nhà, cũng có thể vì chẳng có lý do gì, anh chỉ muốn hút một điếu thuốc.
Trong phòng tối đen như mực, bên ngoài trời cũng tối tăm, giữa trời đất chỉ còn sót lại tiếng gió mưa. Tiếng thở của cô nhẹ nhàng, nhưng giữa chừng âm thanh hỗn độn đó vẫn có thể nghe thấy giống như một con mèo, hay con vật nhỏ nào đó, đang hít thở thật nhẹ, ngủ rất say. Đêm yên tĩnh, dù bên ngoài mưa gió dữ dội thế nào, không khí trong phòng lại ngưng đọng như hổ phách.
Cuối cùng anh ngồi dậy, tìm trong ba lô bao thuốc lá, tiếng bật lửa khẽ kêu, ngọn lửa bùng lên. Khi châm điếu thuốc cũng đồng thời phá tan không gian trầm lặng này. Ánh lửa lay động tạo chút ánh sáng nhạt nhòa nhưng cơ hồ lại soi rõ cô đang say ngủ, mái tóc đen xõa trên gối, vương lên gương mặt nghiêng nghiêng như vầng trăng giữa biển khơi, trắng đến khó tin.
Anh tắt bật lửa, lặng lẽ ngồi hút thuốc. Trong bóng tối không thể nhìn thấy điếu thuốc, nhưng khói thuốc ngập vào phổi lại mang theo vị đắng nhẹ dịu. Bên ngoài là tiếng mưa rơi rào rào, đảo giữa biển tạo thành một con thuyền nhỏ, dập dềnh giữa sóng lớn.
Ngày thứ hai mưa dai dẳng, đã thế còn mưa to hơn hôm trước. Đỗ Hiểu Tô dậy khá sớm, phát hiện Lôi Tranh Vũ đã dậy từ lâu. Cô đến nhà bếp, thấy thầy Tôn đã nhóm lửa, thế là cô hào hứng chạy vào giúp nấu bữa sáng. Radio đang phát bản tin dự báo thời tiết, bão đang di chuyển về phía nam, cũng may tâm bão cách đảo rất xa, nên ở đây chỉ chịu chút ảnh hưởng của gió.
Bọn trẻ đánh răng rửa mặt dưới mái hiên, bữa sáng là cháo và cá chiên bột, dù Đỗ Hiểu Tô chiên cá bị cháy nhưng bọn trẻ vẫn ăn rất vui vẻ, thầy Tôn ăn món cá chiên bột bị khét cũng cười ha ha. Đỗ Hiểu Tô ngại ngùng, gỡ bỏ phần cháy bên ngoài ra: “Chỉ ăn cá thôi. Chiên cháy rồi ăn vào không tốt cho sức khỏe”.
Ăn xong bữa sáng, cô lấy dụng cụ học tập và sách tham khảo ra, bọn trẻ nhìn thấy thì reo hò mừng vui như được nghỉ Tết.
Mưa càng lúc càng to, gió mỗi lúc một mạnh, thầy Tôn sợ bão sẽ di chuyển đến gần, liền lấy búa, đinh và gỗ bất chấp mưa gió ra ngoài để gia cố lại cửa sổ kí túc xá trường. Lôi Vũ Tranh vốn đang giúp thầy Tôn nhưng nhìn thấy Đỗ Hiểu Tô cúi người ôm tấm gỗ thì bước qua đẩy cô ra: “Đây không phải việc của phụ nữ”.
Anh ôm lấy gỗ ra ngoài, nhìn thầy Tôn ở ngoài vừa hứng mưa vừa đóng đinh, mất nửa ngày mới làm xong.
Cả hai người đều phải dầm mưa, quần áo ướt dính sát vào người, gió vừa thổi qua liền thấy lạnh thấu xương. Đỗ Hiểu Tô không biết nhóm bếp, nên việc đó vẫn là do thầy Tôn làm. Cô vụng về lung túng mãi mới nấu được một nồi canh gừng, thầy Tôn không nói gì, còn Lôi Vũ Tranh chau mày uống hết. Cô rất hiếm khi xuống bếp, nên nhìn anh vẻ áy náy nói: “Canh gừng cay không?”.
Canh gừng đương nhiên phải cay. Có điều còn kinh khủng hơn cả món cá cháy buổi sáng.
Nấu cơm trưa cô lại càng vụng về, anh thật sự chịu không được liền nói: “Đưa tạp dề đây, cô ra ngoài đi”.
Cô lặng người, cảm giác như vừa nhớ đến điều gì đó, nhưng cô không nói năng gì, lặng lẽ cởi tạp dề đưa cho anh.
Thầy Tôn đang nhóm bếp, còn Đỗ Hiểu Tô đứng bên cạnh giúp mấy việc vặt, đưa đĩa đưa bát. Kết quả Lôi Vũ Tranh nấu được bốn món, cả bốn món đều là cá, bọn trẻ ăn hết sạch trơn, còn nói chú Tiểu Thiệu nấu cơm ngon quá, chỉ có cá cũng làm được ngon vậy.
Đỗ Hiểu Tô cũng vui vẻ chêm lời: “Chú Tiểu Thiệu tài giỏi nhất, nấu cơm rất ngon, ngon hơn chị nấu nhiều”.
Một cô bé cười: “Chị Hiểu Tô không biết nấu cơm à?”
Đỗ Hiểu Tô quỳ xuống, tươi cười nói với cô bé: “Chị Hiểu Tô còn có rất nhiều việc không biết làm, cho nên các em phải học cho tốt, đợi các em học đến đại học, thạc sĩ, tiến sĩ thì sẽ biết nhiều thứ hơn chị Hiểu Tô, tài giỏi hơn chị Hiểu Tô, đến lúc đó đến lượt các em dạy chị”.
Thầy Tôn nhân đó nói: “Được rồi, phải vào học thôi, các em vào phòng học đi”.
Bọn trẻ vào học, nhà bếp trong chốc lát yên tĩnh hẳn. Đỗ Hiểu Tô dọn dẹp bát đũa rồi ngâm trong bồn nước. Nước trong chum hết rồi, thầy Tôn thấy vậy liền mang chậu ra ngoài hứng. Mưa rất to, chỉ nghe thấy tiếng gió thổi ào ào và tiếng mưa rì rào, cây cỏ sau núi bị gió đổ rạp về một bên. Bên cạnh bếp có một chiếc thùng gỗ, bên trên đậy một cái chậu nhựa, trong thùng là tôm. Tôm vừa được gửi đến hôm qua, thầy Tôn định nấu bữa tối cho mọi người, cô mở ra xem thử, ai ngờ tôm đã để đây một ngày mà vẫn còn sống, nhảy lung tung, có một con tôm nhảy cả ra ngoài. Cô định bắt lại, con tôm đã cong người nhảy bật đi, nhảy thẳng đến góc tường, cô đuổi theo rồi đột nhiên có một bóng đen nhảy ra, vụt qua chân cô, Đỗ Hiểu Tô giật bắn người, sau đó nhìn kỹ thì ra là một con mèo, nhảy đến chụp lấy con tôm. Không ngờ tôm có mũi nhọn, có lẽ mèo con chụp phải liền kêu lên một tiếng “meo” rồi nhảy trở ra, nghiêng cái đầu nhỏ xíu chăm chăm nhìn con tôm. Một lúc sau, mèo con cẩn thận tiến lại gần, vươn móng vuốt ra thử chọc con tôm, tôm cố sức nhảy bật lên, mũi nhọn đâm trúng vào mũi mèo con, dọa nó kêu lên, chạy đến nép vào chân Đỗ Hiểu Tô, run lên bần bật.
Đỗ Hiểu Tô ôm mèo con lên, đó là một con mèo lông đen trắng xen kẽ, ngoan ngoãn cuộn tròn trong tay cô, giống quả cầu lông, kêu “meo meo”. Cô chọc mèo con: “Meo Meo, mày tên gì? Mày gầy thế này, hay là gọi mày Xương Sườn đi”. Mèo con có đôi mắt to tròn lóng lánh nước, tựa như biết nói.
Mèo con đưa lưỡi hồng hồng, liếm ngón tay cô, cô lập tức bật cười: “Chấn Vinh anh xem, đáng yêu quá!”.
Anh không nói gì, có lẽ cô thật sự xem anh là Thiệu Chấn Vinh, trên hòn đảo này.
Có lẽ là vì quá yêu nên cô mới chìm đắm như vậy, tự gạt mình gạt người.
Bên ngoài, trời mưa như trút nước, tiếng mưa dội vào tay, có cả tiếng bọn trẻ đang đọc bài, đọc theo giọng không chuẩn lắm của thầy Tôn: “Suối trên núi Vũ Di chảy vòng quanh núi chuyển hướng chín lần, vì vậy gọi là núi Cửu Khúc. Nước suối rất trong, có thể nhìn thấy cát đá dưới lòng suối…”, âm thanh hòa lẫn trong mưa, nghe mơ hồ mà xa xôi. Đỗ Hiểu Tô nhìn mây mù bị gió thổi cuộn thành từng vòng, giống một dải lụa trắng, cuộn đến đâu ướt đến đó. Cô không khỏi lo lắng: “Ngày mai không về được thì sao?”.
Mưa to thế này, chỉ sợ không có thuyền.
Cô đột nhiên cười với anh: “Nếu không về được, chúng ta ở lại thêm vài ngày vậy”.
Trước đây cô lúc nào cũng nước mắt ngân ngấn, thật ra cô cười rất đẹp, giống như đứa trẻ có khuôn mặt xinh đẹp mà ngây thơ tựa ánh sao rơi xuống rồi lặng lẽ đọng lại trong tim. Bên ngoài chỉ có tiếng mưa gió hòa lẫn vào nhau ồn ào, gần như biến hòn đảo thành một thế giới khác.
Cô và Thiệu Chấn Vinh từng nhận giúp đỡ vài đứa trẻ nghèo trong một trường học ở ngoài đảo. Bọn trẻ rất ngoan, tháng nào cũng viết thư cho họ. Tết vừa rồi bọn trẻ gửi thư đến, xin cô và Thiệu Chấn Vinh gửi cho chúng một tấm ảnh và rất hy vọng được gặp cô và anh. Lúc ấy cô và Thiệu Chấn Vinh nói trong thư hồi âm, rằng đợi khi chú Tiểu Thiệu nghỉ phép, nhất định sẽ đến thăm chúng ta, mang theo máy chụp hình, chụp thật nhiều hình rồi chờ bọn trẻ lớn lên xem lại.
“Có thể cùng tôi đi thăm bọn trẻ không, chỉ một lần thôi, sẽ không mất nhiều thời gian của anh, anh rất giống Chấn Vinh, bọn trẻ sẽ không biết đâu…”, cô thì thầm, “Tôi thật sự không biết phải nói thế nào với chúng…nếu tôi nói Chấn Vinh không còn nữa… những lời tàn nhẫn như vậy, ngay đến bản thân tôi còn không thể chấp nhận…”, cô cúi đầu nhưng không khóc, khóe miệng còn kiên cường khẽ nhếch lên, tạo thành một nét cười thê lương.
Anh nhìn cô: “Cô cũng ôm đồm nhiều việc quá đấy”.
“Chúng tôi vốn định bảo trợ chúng đến tận đại học, nhưng bây giờ… dù sao tôi cũng quyết định sẽ giúp chúng học tiếp”, cô ngẩng lên nhìn anh, “Chỉ phiền anh một lần này thôi, tôi đảm bảo sau này sẽ không phiền anh nữa, đây là lần cuối cùng”.
Đôi mắt đen láy nhìn anh, nhưng không phải là ánh mắt cầu khẩn, cũng không có vẻ đáng thương, đôi mắt mang luồng sáng trong vắt, đôi mắt chỉ đơn thuần tìm kiếm sự giúp đỡ. Vốn dĩ anh cảm thấy cô đáng thương, nhưng có lúc cô lại khiến anh vô cùng bất ngờ.
Anh lặng im không đáp.
Cả đi và về trong ba ngày có chút mệt, nhưng thời gian như vậy chỉ cần cố gắng chút cũng đủ rồi. Đỗ Hiểu Tô không mang nhiều hành lý, nhưng lại mua khá hiều dụng cụ học tập như giấy bút, sách tham khảo, không ngờ cũng chất đầy túi du lịch lớn. Khi xuống máy bay lại còn phải chuyển xe giữa trời mưa xối xả, hành trình rất cực khổ, đường xá gập ghềnh, còn phải qua hai lần thay lốp. Đến gần biển thì trời đã tối, sau đó phải lên thuyền mới ra được đảo. Trời đang mưa, sóng rất lớn mà thuyền lại nhỏ, cô bị say sóng, nôn khá nhiều, nên chỉ có thể quỳ trên thuyền không dám đứng lên. Anh đưa cho cô chai nước, vì thường xuyên ra biển câu cá nên anh thích ứng khá nhanh. Cô quỳ trên thuyền, nắm chặt dây thừng, nôn lên nôn xuống, vô cùng mệt mỏi nhưng cũng không hỏi bao giờ đến.
Sự quật cường này của cô cũng có phần giống Chấn Vinh.
Mãi lâu sau thuyền mới đến nơi, có lẽ đây là lần đầu tiên cô ngồi thuyền qua biển, chân chạm đất rồi mà vẫn còn loạng choạng không vững, tựa như mặt đất cũng đang rung động như trên biển. Trên cầu có một ngọn đèn chiếu sáng những hạt mưa đang rơi, quay đầu lại nhìn mặt biển cách đó không xa mang một màu đen ánh.
Bọn trẻ cầm theo đèn biển, dưới sự chỉ dẫn của thầy giáo đứng ở cầu đón họ.
Thầy giáo họ Tôn, tuổi còn trẻ, thật ra cũng chỉ là một cậu trai trẻ chừng mười tám, mười chín tuổi nên gặp họ cũng có phần ngượng ngùng, chỉ tranh xách hành lý.
Có một đứa trẻ kêu lên: “Chú Tiểu Thiệu !”. Đỗ Hiểu Tô giật mình, quay đầu lại nhìn thấy anh cười đáp lại, còn đưa tay xoa đầu đứa nhóc, Đỗ Hiểu Tô thở phào nhẹ nhõm. Bọn trẻ bắt đầu cười nói như một tổ chim nhỏ vô cùng náo nhiệt. Mấy cô bé gọi Đỗ Hiểu Tô: “Chị Hiểu Tô!”. Một cô bé lớn hơn nhón chân, định giúp Đỗ Hiểu Tô che dù, thấy cô bé như thế, Lôi Vũ Tranh đeo ba lô lên lưng, đưa tay ra nhận lấy cái dù: “Để anh”.
Trên đường đi Đỗ Hiểu Tô rất trầm lặng, sau khi Thiệu Chấn Vinh gặp nạn cô vẫn luôn như vậy, chỉ khi nói chuyện với bọn trẻ, cô mới có vẻ hoạt bát hơn một chút: “Bốn phía đều là biển, chúng tôi chắc chắn sẽ không đi lạc đâu, trời mưa thế này còn ra đón chúng tôi làm gì?”.
Thầy Tôn vẫn rất ngại ngần nói: “Hôm qua nhận được điện thoại nói hai người sẽ đến, học sinh cứ bàn tán cả ngày trời, rồi đứa nào cũng nhất định đòi đi đón, tôi không khuyên được. Vả lại hai người từ xa đến đây, chúng tôi cũng nên đi”. Chiếc dù rất nhỏ mà mưa bắt đầu nặng hạt, có một cô bé nói chân thành: “Chị Hiểu Tô, chị xem chú Tiểu Thiệu ướt hết rồi.”, thì ra dù trong tay anh nghiêng hết sang phía cô. Đỗ Hiểu Tô ngẩng người, còn anh vẫn để mặc một bên vai ướt đẫm, cô không biết phải làm sao mới được, cuối cùng do dự một lát, đưa tay giữ lấy cánh tay đang cầm ô của anh.
Mấy đứa trẻ cười khúc khích, có vẻ rất vui khi nhìn thấy hai người thân thiết như vậy.
Trường học được xây ở lưng chừng núi, đường lên núi ngoằn ngoèo uốn lượn khó đi, hầu như đi bước nào trượt bước đó. Khó khăn lắm mới đến được kí túc xá học sinh, mọi người gần như đều ướt hết. Cái gọi là kí túc xá học sinh thật ra chỉ là một căn phòng khá lớn. Giữa phòng là một tấm gỗ, trên đầu tấm gỗ có ngọn đèn vàng mờ mờ. Thầy Tôn ngại ngần nói: “Chúng tôi có máy phát điện…”, lời chưa dứt, đèn đã vụt tắt.
Bọn trẻ bật cười, thầy Tôn đứng trong bóng tối đang ảo não, nhưng vẫn mắng yêu: “Còn cười”.
Mấy đứa trẻ lại cười ầm lên, thầy Tôn nói: “Năm ngoái mua một cái máy phát điện cũ, chẳng may bị hỏng, trên đảo lại không có người sửa…”.
Lôi Vũ Tranh bật máy lửa lên, tìm được đèn pin trong ba lô, thầy Tôn cũng tìm được nến, nói: “Tôi xuống bếp đun nước, bạn trẻ cũng chưa tắm, ướt thế này dễ cảm lạnh”.
Lôi Vũ Tranh hỏi: “Máy phát điện ở đâu? Tôi đi xem thử”. Đỗ Hiểu Tô hình như cảm thấy lạ nên đưa mắt nhìn anh, anh không nói gì nữa.
Thầy Tôn dẫn anh đến chỗ máy phát điện. Lôi Vũ Tranh cởi áo khoác, rồi xắn tay áo, kiểm tra kỹ lưỡng: “Hỏng cũng không nặng lắm”.
Vì thầy Tôn phải đi đun nước, nên Đỗ Hiểu Tô cầm đèn pin soi giúp Lôi Tranh Vũ sửa máy phát. Nhiều năm rồi anh không đụng đến máy phát điện, lần trước chỉ là ở trong phòng thí nghiệm của trường. Cũng may anh vẫn chưa quên nguyên lý cơ bản, dây điện cũng không phức tạp lắm. Vì góc độ chiếu sáng của đèn pin có hạn, đứng xa một chút sợ rằng không đủ sáng, vậy nên Đỗ Hiểu Tô cúi xuống bên cạnh anh, hai người gần như chạm đầu vào nhau, phải như vậy anh mới nhìn thấy rõ các linh kiện bên trong. Khoảng cách gần, hơi thở của cô nhẹ nhàng thoảng bên tai, khiến vành tai anh tự nhiên nóng bừng lên. Hơi thở còn có hương thơm nhàn nhạt, không phải là nước hoa. Anh nghi ngờ đây là ảo giác, bởi mùi dầu đốt rất nồng, lẽ ra không còn ngửi thấy gì khác mới đúng.
Vật lộn nửa giờ đồng hồ, tay dính đầy dầu, máy phát điện cuối cùng cũng làm việc trở lại, đèn trong phòng bật sáng, bọn trẻ reo lên sung sướng.
Vào trong nhà, bọn trẻ tranh nhau nói: “Chú Tiểu Thiệu giỏi thật!”.
“Chú Tiểu Thiệu là bác sĩ!”
“Biết chữa bệnh còn biết sửa máy phát điện!”
“Lớn lên cháu cũng muốn giống chú Tiểu Thiệu !”
Cô cũng quay lại mỉm cười, ánh đèn vàng vọt chiếu lên khuôn mặt, hai má hơi ửng hồng: “Tôi đi lấy nước cho anh rửa tay”.
Không đợi anh nói gì thêm, cô đã đi ra bếp rồi.
Thầy Tôn đun một nồi nước lớn, cô múc một gáo, pha thành nước ấm cho anh rửa tay, sau đó giúp thầy Tôn gọi bọn trẻ đi tắm. Mấy đứa trẻ đều là con cái ngư dân quanh vùng, tập trung trên đảo này học, vì khoảng cách giữa các đảo khá lớn nên có nhiều học sinh một tháng chỉ có thể về nhà có một lần. Từ việc học hành đến sinh hoạt ăn uống đều do thầy Tôn lo liệu. Cũng may mắn bọn trẻ rất ngoan, tự mình lấy chậu, chia nước, xếp hàng đi tắm.
Thầy Tôn nhường phòng cho họ, còn mình ngủ chung với học sinh, nụ cười vẫn ngại ngần như thế: “Dầu tăng giá rồi, máy phát điện chỉ dùng được một lúc thôi, đi ngủ sớm đi”.
Lôi Vũ Tranh cũng hơi khó xử, cũng may thầy Tôn cũng thấy ngại, đặt hai bình nước nóng xuống đất, gãi gãi đầu rồi nhanh chóng rời đi.
Anh khóa cửa, mở ba lô lấy túi ngủ và mền ra: “Cô ngủ trên giường đi!”
Cô nhìn chiếc giường đơn, thầy Tôn đã thu dọn sẵn, chăn gối rất sạch sẽ, cô nói: “Tôi ngủ dưới đất”. Tuy đây là trên núi nhưng vẫn là ngoài đảo, hơn nữa trời đang mưa, mặt đất rất ẩm ướt.
Anh nói: “Không sao, khi còn leo núi tôi vẫn thường ngủ lều”, anh đưa cho cô túi ngủ còn lại, “Cô cần không? Tối sẽ rất lạnh đấy”.
Rửa mặt rửa tay xong, anh liền chui vào túi ngủ. Tiếng mưa ào ào, căn phòng chẳng khác nào một con thuyền, còn nghe được cả tiếng sóng biển phía xa xa, lúc này trong phòng chỉ có một ngọn đèn nhỏ. Dù sao cũng lặn lội cả ngày trời, nên cơn mệt mỏi nhanh chóng ập đến. Cô quay người, trong chốc lát đã nghe thấy hơi thở đều đặn.
Không lâu sau, tim đèn trong đèn lập lòe nhỏ dần rồi tắt.
Có lẽ chút dầu thắp ít ỏi đã hết.
Không biết vì sao anh không ngủ được, có lẽ vì tiếng mưa gió và sóng biển bên ngoài, cũng có thể vì lạ nhà, cũng có thể vì chẳng có lý do gì, anh chỉ muốn hút một điếu thuốc.
Trong phòng tối đen như mực, bên ngoài trời cũng tối tăm, giữa trời đất chỉ còn sót lại tiếng gió mưa. Tiếng thở của cô nhẹ nhàng, nhưng giữa chừng âm thanh hỗn độn đó vẫn có thể nghe thấy giống như một con mèo, hay con vật nhỏ nào đó, đang hít thở thật nhẹ, ngủ rất say. Đêm yên tĩnh, dù bên ngoài mưa gió dữ dội thế nào, không khí trong phòng lại ngưng đọng như hổ phách.
Cuối cùng anh ngồi dậy, tìm trong ba lô bao thuốc lá, tiếng bật lửa khẽ kêu, ngọn lửa bùng lên. Khi châm điếu thuốc cũng đồng thời phá tan không gian trầm lặng này. Ánh lửa lay động tạo chút ánh sáng nhạt nhòa nhưng cơ hồ lại soi rõ cô đang say ngủ, mái tóc đen xõa trên gối, vương lên gương mặt nghiêng nghiêng như vầng trăng giữa biển khơi, trắng đến khó tin.
Anh tắt bật lửa, lặng lẽ ngồi hút thuốc. Trong bóng tối không thể nhìn thấy điếu thuốc, nhưng khói thuốc ngập vào phổi lại mang theo vị đắng nhẹ dịu. Bên ngoài là tiếng mưa rơi rào rào, đảo giữa biển tạo thành một con thuyền nhỏ, dập dềnh giữa sóng lớn.
Ngày thứ hai mưa dai dẳng, đã thế còn mưa to hơn hôm trước. Đỗ Hiểu Tô dậy khá sớm, phát hiện Lôi Tranh Vũ đã dậy từ lâu. Cô đến nhà bếp, thấy thầy Tôn đã nhóm lửa, thế là cô hào hứng chạy vào giúp nấu bữa sáng. Radio đang phát bản tin dự báo thời tiết, bão đang di chuyển về phía nam, cũng may tâm bão cách đảo rất xa, nên ở đây chỉ chịu chút ảnh hưởng của gió.
Bọn trẻ đánh răng rửa mặt dưới mái hiên, bữa sáng là cháo và cá chiên bột, dù Đỗ Hiểu Tô chiên cá bị cháy nhưng bọn trẻ vẫn ăn rất vui vẻ, thầy Tôn ăn món cá chiên bột bị khét cũng cười ha ha. Đỗ Hiểu Tô ngại ngùng, gỡ bỏ phần cháy bên ngoài ra: “Chỉ ăn cá thôi. Chiên cháy rồi ăn vào không tốt cho sức khỏe”.
Ăn xong bữa sáng, cô lấy dụng cụ học tập và sách tham khảo ra, bọn trẻ nhìn thấy thì reo hò mừng vui như được nghỉ Tết.
Mưa càng lúc càng to, gió mỗi lúc một mạnh, thầy Tôn sợ bão sẽ di chuyển đến gần, liền lấy búa, đinh và gỗ bất chấp mưa gió ra ngoài để gia cố lại cửa sổ kí túc xá trường. Lôi Vũ Tranh vốn đang giúp thầy Tôn nhưng nhìn thấy Đỗ Hiểu Tô cúi người ôm tấm gỗ thì bước qua đẩy cô ra: “Đây không phải việc của phụ nữ”.
Anh ôm lấy gỗ ra ngoài, nhìn thầy Tôn ở ngoài vừa hứng mưa vừa đóng đinh, mất nửa ngày mới làm xong.
Cả hai người đều phải dầm mưa, quần áo ướt dính sát vào người, gió vừa thổi qua liền thấy lạnh thấu xương. Đỗ Hiểu Tô không biết nhóm bếp, nên việc đó vẫn là do thầy Tôn làm. Cô vụng về lung túng mãi mới nấu được một nồi canh gừng, thầy Tôn không nói gì, còn Lôi Vũ Tranh chau mày uống hết. Cô rất hiếm khi xuống bếp, nên nhìn anh vẻ áy náy nói: “Canh gừng cay không?”.
Canh gừng đương nhiên phải cay. Có điều còn kinh khủng hơn cả món cá cháy buổi sáng.
Nấu cơm trưa cô lại càng vụng về, anh thật sự chịu không được liền nói: “Đưa tạp dề đây, cô ra ngoài đi”.
Cô lặng người, cảm giác như vừa nhớ đến điều gì đó, nhưng cô không nói năng gì, lặng lẽ cởi tạp dề đưa cho anh.
Thầy Tôn đang nhóm bếp, còn Đỗ Hiểu Tô đứng bên cạnh giúp mấy việc vặt, đưa đĩa đưa bát. Kết quả Lôi Vũ Tranh nấu được bốn món, cả bốn món đều là cá, bọn trẻ ăn hết sạch trơn, còn nói chú Tiểu Thiệu nấu cơm ngon quá, chỉ có cá cũng làm được ngon vậy.
Đỗ Hiểu Tô cũng vui vẻ chêm lời: “Chú Tiểu Thiệu tài giỏi nhất, nấu cơm rất ngon, ngon hơn chị nấu nhiều”.
Một cô bé cười: “Chị Hiểu Tô không biết nấu cơm à?”
Đỗ Hiểu Tô quỳ xuống, tươi cười nói với cô bé: “Chị Hiểu Tô còn có rất nhiều việc không biết làm, cho nên các em phải học cho tốt, đợi các em học đến đại học, thạc sĩ, tiến sĩ thì sẽ biết nhiều thứ hơn chị Hiểu Tô, tài giỏi hơn chị Hiểu Tô, đến lúc đó đến lượt các em dạy chị”.
Thầy Tôn nhân đó nói: “Được rồi, phải vào học thôi, các em vào phòng học đi”.
Bọn trẻ vào học, nhà bếp trong chốc lát yên tĩnh hẳn. Đỗ Hiểu Tô dọn dẹp bát đũa rồi ngâm trong bồn nước. Nước trong chum hết rồi, thầy Tôn thấy vậy liền mang chậu ra ngoài hứng. Mưa rất to, chỉ nghe thấy tiếng gió thổi ào ào và tiếng mưa rì rào, cây cỏ sau núi bị gió đổ rạp về một bên. Bên cạnh bếp có một chiếc thùng gỗ, bên trên đậy một cái chậu nhựa, trong thùng là tôm. Tôm vừa được gửi đến hôm qua, thầy Tôn định nấu bữa tối cho mọi người, cô mở ra xem thử, ai ngờ tôm đã để đây một ngày mà vẫn còn sống, nhảy lung tung, có một con tôm nhảy cả ra ngoài. Cô định bắt lại, con tôm đã cong người nhảy bật đi, nhảy thẳng đến góc tường, cô đuổi theo rồi đột nhiên có một bóng đen nhảy ra, vụt qua chân cô, Đỗ Hiểu Tô giật bắn người, sau đó nhìn kỹ thì ra là một con mèo, nhảy đến chụp lấy con tôm. Không ngờ tôm có mũi nhọn, có lẽ mèo con chụp phải liền kêu lên một tiếng “meo” rồi nhảy trở ra, nghiêng cái đầu nhỏ xíu chăm chăm nhìn con tôm. Một lúc sau, mèo con cẩn thận tiến lại gần, vươn móng vuốt ra thử chọc con tôm, tôm cố sức nhảy bật lên, mũi nhọn đâm trúng vào mũi mèo con, dọa nó kêu lên, chạy đến nép vào chân Đỗ Hiểu Tô, run lên bần bật.
Đỗ Hiểu Tô ôm mèo con lên, đó là một con mèo lông đen trắng xen kẽ, ngoan ngoãn cuộn tròn trong tay cô, giống quả cầu lông, kêu “meo meo”. Cô chọc mèo con: “Meo Meo, mày tên gì? Mày gầy thế này, hay là gọi mày Xương Sườn đi”. Mèo con có đôi mắt to tròn lóng lánh nước, tựa như biết nói.
Mèo con đưa lưỡi hồng hồng, liếm ngón tay cô, cô lập tức bật cười: “Chấn Vinh anh xem, đáng yêu quá!”.
Anh không nói gì, có lẽ cô thật sự xem anh là Thiệu Chấn Vinh, trên hòn đảo này.
Có lẽ là vì quá yêu nên cô mới chìm đắm như vậy, tự gạt mình gạt người.
Bên ngoài, trời mưa như trút nước, tiếng mưa dội vào tay, có cả tiếng bọn trẻ đang đọc bài, đọc theo giọng không chuẩn lắm của thầy Tôn: “Suối trên núi Vũ Di chảy vòng quanh núi chuyển hướng chín lần, vì vậy gọi là núi Cửu Khúc. Nước suối rất trong, có thể nhìn thấy cát đá dưới lòng suối…”, âm thanh hòa lẫn trong mưa, nghe mơ hồ mà xa xôi. Đỗ Hiểu Tô nhìn mây mù bị gió thổi cuộn thành từng vòng, giống một dải lụa trắng, cuộn đến đâu ướt đến đó. Cô không khỏi lo lắng: “Ngày mai không về được thì sao?”.
Mưa to thế này, chỉ sợ không có thuyền.
Cô đột nhiên cười với anh: “Nếu không về được, chúng ta ở lại thêm vài ngày vậy”.
Trước đây cô lúc nào cũng nước mắt ngân ngấn, thật ra cô cười rất đẹp, giống như đứa trẻ có khuôn mặt xinh đẹp mà ngây thơ tựa ánh sao rơi xuống rồi lặng lẽ đọng lại trong tim. Bên ngoài chỉ có tiếng mưa gió hòa lẫn vào nhau ồn ào, gần như biến hòn đảo thành một thế giới khác.
Danh sách chương