Thẩm phán Hackett nhìn quanh phòng xử án cũng kỹ lưỡng như một vận động viên cricket sắp ném quả bóng đầu tiên của trận đấu tìm kiếm xem những người chặn bóng đã được đối phương bố trí ở đâu để ngăn cú phát phóng của anh ta. Đôi mắt ngài thẩm phán dừng lại khi bắt gặp Sir Matthew Redmayne đang ngồi đợi phiên tòa bắt đầu. Không có ai khác trong số những người sắp tham gia vào phiên xét xử khiến ngài thẩm phán phải dè chừng, nhưng ông biết rõ mình không được phép lơi lỏng một khi Sir Matthew nhập cuộc.
Ngài thẩm phán chuyển sự chú ý sang phần đọc cáo trạng của đội chủ nhà, ông Arnold Pearson QC vốn không nổi tiếng về việc ra đòn ghi điểm sớm.
“Ông Pearson, ông đã sẵn sàng cho phần cáo trạng chưa?”
“Tôi đã sẵn sàng, thưa ngài thẩm phán,” Pearson đáp, đưa mắt lướt qua một lượt mười hai công dân đã được lựa chọn để đưa ra phán quyết trong phiên tòa này. “Tên tôi là Arnold Pearson, và tôi sẽ đại diện cho Công tố Hoàng gia trong phiên tòa này. Trợ lý của tôi là ông David Simms. Dẫn đầu bên biện hộ cho bị cáo là ông Alex Redmayne, cùng trợ lý của ông, Sir Matthew Redmayne.” Mọi con mắt trong phòng xử án đổ dồn vào vị thẩm phán già đang ngồi lừ đừ ở góc băng ghế, dường như đang ngủ gật.
“Thưa bồi thẩm đoàn,” Pearson nói tiếp, “bị cáo bị khởi tố với năm tội danh. Tội danh thứ nhất, bị cáo đã bỏ trốn một cách có chủ ý khỏi nhà tù Belmarsh, một cơ sở giam giữ an ninh nghiêm ngặt nằm ở đông nam London, nơi bị cáo đang thụ án do lần vi phạm pháp luật trước.”
“Tội danh thứ hai, bị cáo đã lừa đảo chiếm đoạt của Sir Hugo Moncrieff một lãnh địa ở Scotland, bao gồm một tòa dinh thự mười bốn phòng ngủ và mười hai ngàn mẫu đất canh tác.”
“Tội danh thứ ba, bị cáo đã sử dụng trái phép một ngôi nhà, cụ thể là nhà số mười hai The Boltons, London SW3, vốn không thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bị cáo.”
“Tội danh thứ tư liên quan đến việc đánh cắp một bộ sưu tập tem quý, sau đó bán bộ sưu tập này đi với giá trên hai mươi lăm triệu bảng.”
“Và tội danh thứ năm, bị cáo đã dùng séc để rút tiền từ tài khoản ngân hàng tại chi nhánh ngân hàng Coutt ở phố Strand, London, sau đó chuyển tiền vào một ngân hàng tư nhân ở Thụy Sĩ, cả hai giao dịch này bị cáo đều không được quyền thực hiện, và bị cáo đã thủ lợi từ các hành động trái phép này.”
“Công tố Hoàng gia sẽ chứng minh năm tội danh kể trên có liên hệ với nhau, cũng như đều được gây ra bởi cùng một người, chính là bị cáo, Daniel Cartwright, kẻ đã mạo nhận danh tính của Sir Nicholas Moncrieff, người thừa kế chính thức và hợp pháp trong di chúc của Sir Alexander Moncrieff đã quá cố. Để chứng mình điều này, thưa bồi thẩm đoàn, trước hết tôi cần đưa quý vị quay trở lại nhà tù Belmarsh để chỉ ra bằng cách nào bị cáo lại có thể tạo lập cho mình vị thế cho phép bị cáo thực hiện những hành vi phạm tội táo tợn kể trên. Để làm rõ quá trình đó, rất có thể tôi cần phải nói qua về hành vi phạm tội ban đầu mà Cartwright bị kết án.”
“Ông sẽ không được làm như thế,” thẩm phán Hackett nghiêm khắc can thiệp. “Tội trạng trước đây của bị cáo không có liên hệ gì tới các tội danh đang được xét xử trong phiên tòa này. Ông không được phép liên hệ với vụ án trước đây trừ khi chứng minh được mối liên hệ trực tiếp và có ý nghĩa giữa vụ án đó và vụ án hiện tại.” Sir Matthew ghi lại các từ, mối liên hệ trực tiếp và có ý nghĩa. “Tôi đã nói đủ rõ chưa, ông Pearson?”
“Tất nhiên rồi, thưa ngài thẩm phán, và tôi thành thật xin lỗi. Đây là sơ suất của tôi.”
Sir Matthew cau mày. Alex cần phải thật khéo léo xây dựng một lập luận cho thấy mối liên hệ giữa hai vụ án nếu con trai ông không muốn chọc giận thẩm phán Hackett và bị chặn ngang giữa lời biện hộ. Sir Matthew cũng đã để tâm suy nghĩ khá nhiều về vấn đề nan giải này.
“Tôi sẽ thận trọng hơn trong tương lai,” Pearson nói thêm trong khi lật sang trang tiếp theo của tập hồ sơ.
Alex tự hỏi không rõ có phải Pearson cố ý tỏ ra hớ hênh như vậy với hy vọng sau đó thẩm phán Hackett sẽ can thiệp với lời biện hộ của anh còn quyết liệt hơn, vì ông ta biết quá rõ vai trò điều hành phiên tòa của thẩm phán có lợi cho bên nguyên hơn nhiều so với bên bị.
“Thưa bồi thẩm đoàn,” Pearson nói tiếp, “tôi mong quý vị nhớ thật kỹ cả năm tội danh tôi vừa nêu, vì tiếp theo đây tôi sẽ chứng minh chúng có liên quan mật thiết với nhau, và do đó chỉ có thể được gây ra bởi cùng một người: bị cáo Daniel Cartwright.” Pearson lại kéo tay áo thụng lên lần nữa trước khi tiếp tục.”Ngày mồng bảy tháng sáu năm 2002 là một ngày có lẽ khó phai mờ trong ký ức của quý vị, vì đó là ngày đội tuyển bóng đá Anh đánh bại Argentina tại Cúp thế giới,” Ông ta mừng thầm khi thấy có bao nhiêu thành viên của bồi thẩm đoàn mỉm cười hồi tưởng lại sự kiện đó. “Vào ngày hôm ấy, một bi kịch đã xảy ra tại nhà tù Belmarsh, bi kịch đó chính là lý do khiến chúng ta có mặt tại đây hôm nay. Trong khi phần lớn tù nhân đang tập trung dưới tầng trệt theo dõi trận bóng đá trên truyền hình, một tù nhân đã lựa chọn đúng khoảnh khắc này để tự kết thúc đời mình. Người đàn ông đó là Nicholas Moncrieff, người đã treo cổ tự vẫn trong khu nhà tắm của nhà tù vào lúc khoảng một giờ mười lăm phút chiều. Trong hai năm trước đó, Nicholas Moncrieff đã ở chung phòng giam với hai phạm nhân khác, một trong hai người đó chính là bị cáo Daniel Cartwright.”
“Hai người đàn ông này có chiều cao xấp xỉ nhau, và về tuổi tác chỉ hơn kém nhau vài tháng. Trên thực tế, bề ngoài của họ giống nhau đến mức trong bộ đồng phục của nhà tù, họ thường bị tưởng lầm là hai anh em. Thưa ngài thẩm phán, với sự chấp nhận của ngài, đến đây tôi xin phép được trình lên bồi thẩm đoàn các bức ảnh chụp Moncrieff và Cartwright để bồi thẩm đoàn có thể tự chứng thực sự giống nhau giữa hai người này.”
Ngài thẩm phán gật đầu, và nhân viên của tòa tới nhận một tập ảnh từ người trợ lý của Pearson. Anh ta đưa hai bức ảnh cho ngài thẩm phán, sau đó phân phát số ảnh còn lại cho các thành viên bồi thẩm đoàn. Pearson tựa người lên ghế chờ đợi cho tới khi ông ta cảm thấy hài lòng về thời gian mỗi thành viên bồi thẩm đoàn đã có để xem xét các bức ảnh. Khi họ đã xem xong, ông ta nói, “Bây giờ tôi sẽ mô tả lại Cartwright đã lợi dụng sự giống nhau này như thế nào bằng cách cắt ngắn tóc và đổi giọng nói để lợi dụng cái chết bi thảm của Nicholas Moncrieff. Và thủ lợi theo đúng nghĩa đen trên thực tế là những gì bị cáo đã làm. Tuy nhiên, như với mọi tội ác đặc biệt táo tợn khác, ở đây cũng đòi hỏi một chút may mắn.”
“Điều may mắn đầu tiên là việc Moncrieff nhờ Cartwright cầm hộ một sợi dây chuyền bạc có gắn một chiếc chìa khóa, một chiếc nhẫn có cẩn con dấu riêng của gia đình anh ta, cùng một chiếc đồng hồ có chạm hình hai chữ cái đầu tên của Moncrieff mà anh này luôn đeo trên tay, trừ những lúc đi tắm. Điều may mắn thứ hai là Moncrieff có một kẻ đồng lõa đã tình cờ có mặt đúng chỗ vào đúng thời điểm.”
“Đến đây, thưa bồi thẩm đoàn, quý vị chắc hẳn đang muốn hỏi làm cách nào Cartwright, một kẻ đang thụ án hai mươi hai năm tù vì...”
Alex đứng bật dậy chuẩn bị phản đối thì ngài thẩm phán lên tiếng, “Không thêm một lời nào nữa theo hướng đó, ông Pearson, trừ khi ông muốn thử thách sự kiên nhẫn của tôi.”
“Tôi xin lỗi, thưa ngài thẩm phán,” Pearson nói, hiểu rõ rằng bất cứ thành viên nào của bồi thẩm đoàn đã không theo dõi những diễn biến được đăng tải trên báo chí có liên quan tới vụ án này trong sáu tháng vừa qua lúc này cũng không còn chút nghi ngờ nào về tội danh đã khiến Cartwright bị kết án ban đầu.
“Như tôi đã nói, quý vị có thể thấy khó hiểu tại sao Cartwright, người đang thụ án hai mươi hai năm tù, lại có thể hoán đổi danh tính của mình với một tù nhân khác vốn chỉ bị kết án tám năm và quan trọng hơn nữa, người này lại chuẩn bị được thả tự do sau đó sáu tuần. Tất nhiên ADN của họ sẽ không khớp, nhóm máu của họ rất có thể không hề trùng nhau, và hồ sơ nha khoa của hai người chắc chắn hoàn toàn khác biệt. Đây chính là lúc điều may mắn thứ hai diễn ra,” Pearson nói, “bởi vì những sự kiện tiếp theo không thể nào xảy ra được nếu Cartwright không có một kẻ đồng lõa đang thực hiện công việc quét dọn tại bệnh xá của nhà tù. Kẻ đồng lõa này là Albert Crann, người thứ ba cùng chung phòng giam với Moncrieff và Cartwright. Khi hắn nghe được tin về vụ treo cổ tự sát trong nhà tắm, hắn đã tráo tên của hai người trên nhãn hồ sơ y khoa tại bệnh xá, vì thế khi bác sĩ khám nghiệm tử thi, ông vẫn đưa ra kết luận sai lầm Cartwright là người đã tự vẫn, chứ không phải Moncrieff.”
“Vài ngày sau đó tang lễ diễn ra tại nhà thờ St Mary ở Bow, tại đó thậm chí cả gia quyến của bị cáo, bao gồm người mẹ đứa con của bị cáo, đều bị thuyết phục rằng thi thể được chôn dưới huyệt mộ là của Daniel Cartwright.”
“Quý vị có thể đang tự đặt cho mình câu hỏi, loại người nào có thể sẵn sàng lừa dối cả gia đình mình như vậy. Tôi sẽ trả lời cho các vị đó là loại người nào. Chính là người này,” ông ta nói, đồng thời chỉ về phía Danny. “Bị cáo còn có đủ lạnh lùng để xuất hiện tại tang lễ dưới lốt Nicholas Moncrieff để có thể tận mắt chứng kiến tang lễ của chính mình và đảm bảo chắc chắn âm mưu của mình đã trót lọt.”
Một lần nữa Pearson lại ngồi xuống tựa người vào ghế để ý nghĩa những lời ông ta vừa nói có thời gian ngấm vào những bộ óc của bồi thẩm đoàn. “Từ ngày Moncrieff chết,” ông ta nói tiếp, “Cartwright luôn đeo chiếc đồng hồ của Moncrieff cùng với chiếc nhẫn, sợi dây chuyền và chiếc chìa khóa nhằm đánh lừa nhân viên nhà tù cũng như các tù nhân khác tin rằng bị cáo chính là Nicholas Moncrieff, người chỉ còn phải thụ án thêm sáu tuần nữa.”
“Vào ngày mười bảy tháng bảy năm 2002; Daniel Cartwright bước ra khỏi cổng trước nhà tù Belmarsh như một người tự do, bất chấp việc bị cáo còn phải thụ án hai mươi năm nữa. Liệu vượt ngục trót lọt đã là đủ với bị cáo chưa? Xin thưa là chưa đủ. Bị cáo lập tức bắt chuyến tàu đầu tiên đi Scotland để đòi quyền sở hữu lãnh địa của gia đình Moncrieff, sau đó quay lại London để sống tại ngôi nhà của Sir Nicholas Moncrieff tại The Boltons.”
“Nhưng như vậy chưa phải đã hết, thưa bồi thẩm đoàn. Cartwright sau đó đã thản nhiên xúc tiến việc rút tiền mặt ra từ tài khoản của Sir Nicholas Moncrieff tại ngân hàng Coutts ở phố Strand. Tiếp theo, bị cáo bay tới Geneva để gặp chủ tịch Coubertin và Công ty, một ngân hàng hàng đầu tại Thụy Sĩ, đồng thời trình ra trước ông chủ tịch ngân hàng chiếc chìa khóa bằng bạc cùng hộ chiếu của Moncrieff. Những vật này cho phép bị cáo tiếp cận căn phòng cất giữ bộ sưu tập tem đã trở thành huyền thoại của người ông nội đã quá cố của Nicholas Moncrieff, Sir Alexander Moncrieff. Cartwright đã làm gì khi bị cáo chạm được tay vào món tài sản thừa kế quý giá của gia đình mà Sir Alexander Moncrieff đã phải bỏ ra hơn bảy mươi năm để tập hợp lại? Bị cáo đã bán đi ngay ngày hôm sau cho người đầu tiên xuất hiện và trả giá, thản nhiên bỏ túi một món hời hai mươi lăm triệu bảng.”
Sir Matthew nhướng một bên mày lên. Thật không giống Arnold Pearson khi khởi động bình thản như vậy.
“Nhờ đó giờ đây Cartwright đã trở thành một triệu phú,” Pearson tiếp tục, “quý vị có lẽ sẽ tự hỏi tiếp theo bị cáo sẽ làm gì. Tôi sẽ cho các vị biết ngay đây. Bị cáo bay trở lại London, mua cho mình một chiếc BMW loại đầu bảng, thuê một lái xe riêng và một người quản gia, định cư tại The Boltons và tiếp tục loan truyền truyện bịa đặt rằng bị cáo chính là Sir Nicholas Moncrieff. Và, thưa bồi thẩm đoàn, rất có thể bị cáo ngay lúc này đây vẫn đang tiếp tục sống dưới tấm bình phong bịa đặt đó nếu không có sự nhạy bén nghề nghiệp của Chánh thanh tra Fuller, người đã bắt giữ Cartwright khi bị cáo phạm tội lần đầu năm 1999, và cũng là người hôm nay đã một mình” - Sir Matthew ghi lại hai từ cuối cùng - “lần theo dấu vết, bắt giữ bị cáo và đưa ra trước công lý. Thưa bồi thẩm đoàn, đây là lý do khởi tố vụ án này. Nhưng tiếp theo đây tôi sẽ mời ra trước tòa một nhân chứng, người sẽ khiến quý vị không còn chút nghi ngờ nào về việc bị cáo Daniel Cartwright có tội với cả năm tội danh trong bản cáo trạng.”
Khi Pearson quay về chỗ ngồi, Sir Matthew quay sang phía đối thủ lâu đời của ông và đưa tay lên trán như thể đang nhấc một chiếc mũ vô hình. “Hoan hô,” ông nói.
“Xin cảm ơn, Matthew,” Pearson đáp.
“Thưa các vị,” ngài thẩm phán nói, đồng thời nhìn đồng hồ, “tôi nghĩ đã đến thời điểm thích hợp để tạm nghỉ ăn trưa.”
“Bãi tòa,” người mõ tòa hô lớn, tất cả chức sắc lập tức đứng lên, cúi chào. Thẩm phán Hackett cúi chào đáp lại rồi rời khỏi phòng xử án.
“Không tệ,” Alex thừa nhận với bố anh.
“Bố hoàn toàn đồng ý, mặc dù ông bạn già Arnold đáng mến đã phạm một sai lầm rất có thể sẽ khiến ông ta phải ân hận.”
“Đó là gì vậy?”Alex hỏi.
Sir Matthew đưa cho con trai mảnh giấy trên đó ông đã ghi lại hai từ, một mình.
Ngài thẩm phán chuyển sự chú ý sang phần đọc cáo trạng của đội chủ nhà, ông Arnold Pearson QC vốn không nổi tiếng về việc ra đòn ghi điểm sớm.
“Ông Pearson, ông đã sẵn sàng cho phần cáo trạng chưa?”
“Tôi đã sẵn sàng, thưa ngài thẩm phán,” Pearson đáp, đưa mắt lướt qua một lượt mười hai công dân đã được lựa chọn để đưa ra phán quyết trong phiên tòa này. “Tên tôi là Arnold Pearson, và tôi sẽ đại diện cho Công tố Hoàng gia trong phiên tòa này. Trợ lý của tôi là ông David Simms. Dẫn đầu bên biện hộ cho bị cáo là ông Alex Redmayne, cùng trợ lý của ông, Sir Matthew Redmayne.” Mọi con mắt trong phòng xử án đổ dồn vào vị thẩm phán già đang ngồi lừ đừ ở góc băng ghế, dường như đang ngủ gật.
“Thưa bồi thẩm đoàn,” Pearson nói tiếp, “bị cáo bị khởi tố với năm tội danh. Tội danh thứ nhất, bị cáo đã bỏ trốn một cách có chủ ý khỏi nhà tù Belmarsh, một cơ sở giam giữ an ninh nghiêm ngặt nằm ở đông nam London, nơi bị cáo đang thụ án do lần vi phạm pháp luật trước.”
“Tội danh thứ hai, bị cáo đã lừa đảo chiếm đoạt của Sir Hugo Moncrieff một lãnh địa ở Scotland, bao gồm một tòa dinh thự mười bốn phòng ngủ và mười hai ngàn mẫu đất canh tác.”
“Tội danh thứ ba, bị cáo đã sử dụng trái phép một ngôi nhà, cụ thể là nhà số mười hai The Boltons, London SW3, vốn không thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bị cáo.”
“Tội danh thứ tư liên quan đến việc đánh cắp một bộ sưu tập tem quý, sau đó bán bộ sưu tập này đi với giá trên hai mươi lăm triệu bảng.”
“Và tội danh thứ năm, bị cáo đã dùng séc để rút tiền từ tài khoản ngân hàng tại chi nhánh ngân hàng Coutt ở phố Strand, London, sau đó chuyển tiền vào một ngân hàng tư nhân ở Thụy Sĩ, cả hai giao dịch này bị cáo đều không được quyền thực hiện, và bị cáo đã thủ lợi từ các hành động trái phép này.”
“Công tố Hoàng gia sẽ chứng minh năm tội danh kể trên có liên hệ với nhau, cũng như đều được gây ra bởi cùng một người, chính là bị cáo, Daniel Cartwright, kẻ đã mạo nhận danh tính của Sir Nicholas Moncrieff, người thừa kế chính thức và hợp pháp trong di chúc của Sir Alexander Moncrieff đã quá cố. Để chứng mình điều này, thưa bồi thẩm đoàn, trước hết tôi cần đưa quý vị quay trở lại nhà tù Belmarsh để chỉ ra bằng cách nào bị cáo lại có thể tạo lập cho mình vị thế cho phép bị cáo thực hiện những hành vi phạm tội táo tợn kể trên. Để làm rõ quá trình đó, rất có thể tôi cần phải nói qua về hành vi phạm tội ban đầu mà Cartwright bị kết án.”
“Ông sẽ không được làm như thế,” thẩm phán Hackett nghiêm khắc can thiệp. “Tội trạng trước đây của bị cáo không có liên hệ gì tới các tội danh đang được xét xử trong phiên tòa này. Ông không được phép liên hệ với vụ án trước đây trừ khi chứng minh được mối liên hệ trực tiếp và có ý nghĩa giữa vụ án đó và vụ án hiện tại.” Sir Matthew ghi lại các từ, mối liên hệ trực tiếp và có ý nghĩa. “Tôi đã nói đủ rõ chưa, ông Pearson?”
“Tất nhiên rồi, thưa ngài thẩm phán, và tôi thành thật xin lỗi. Đây là sơ suất của tôi.”
Sir Matthew cau mày. Alex cần phải thật khéo léo xây dựng một lập luận cho thấy mối liên hệ giữa hai vụ án nếu con trai ông không muốn chọc giận thẩm phán Hackett và bị chặn ngang giữa lời biện hộ. Sir Matthew cũng đã để tâm suy nghĩ khá nhiều về vấn đề nan giải này.
“Tôi sẽ thận trọng hơn trong tương lai,” Pearson nói thêm trong khi lật sang trang tiếp theo của tập hồ sơ.
Alex tự hỏi không rõ có phải Pearson cố ý tỏ ra hớ hênh như vậy với hy vọng sau đó thẩm phán Hackett sẽ can thiệp với lời biện hộ của anh còn quyết liệt hơn, vì ông ta biết quá rõ vai trò điều hành phiên tòa của thẩm phán có lợi cho bên nguyên hơn nhiều so với bên bị.
“Thưa bồi thẩm đoàn,” Pearson nói tiếp, “tôi mong quý vị nhớ thật kỹ cả năm tội danh tôi vừa nêu, vì tiếp theo đây tôi sẽ chứng minh chúng có liên quan mật thiết với nhau, và do đó chỉ có thể được gây ra bởi cùng một người: bị cáo Daniel Cartwright.” Pearson lại kéo tay áo thụng lên lần nữa trước khi tiếp tục.”Ngày mồng bảy tháng sáu năm 2002 là một ngày có lẽ khó phai mờ trong ký ức của quý vị, vì đó là ngày đội tuyển bóng đá Anh đánh bại Argentina tại Cúp thế giới,” Ông ta mừng thầm khi thấy có bao nhiêu thành viên của bồi thẩm đoàn mỉm cười hồi tưởng lại sự kiện đó. “Vào ngày hôm ấy, một bi kịch đã xảy ra tại nhà tù Belmarsh, bi kịch đó chính là lý do khiến chúng ta có mặt tại đây hôm nay. Trong khi phần lớn tù nhân đang tập trung dưới tầng trệt theo dõi trận bóng đá trên truyền hình, một tù nhân đã lựa chọn đúng khoảnh khắc này để tự kết thúc đời mình. Người đàn ông đó là Nicholas Moncrieff, người đã treo cổ tự vẫn trong khu nhà tắm của nhà tù vào lúc khoảng một giờ mười lăm phút chiều. Trong hai năm trước đó, Nicholas Moncrieff đã ở chung phòng giam với hai phạm nhân khác, một trong hai người đó chính là bị cáo Daniel Cartwright.”
“Hai người đàn ông này có chiều cao xấp xỉ nhau, và về tuổi tác chỉ hơn kém nhau vài tháng. Trên thực tế, bề ngoài của họ giống nhau đến mức trong bộ đồng phục của nhà tù, họ thường bị tưởng lầm là hai anh em. Thưa ngài thẩm phán, với sự chấp nhận của ngài, đến đây tôi xin phép được trình lên bồi thẩm đoàn các bức ảnh chụp Moncrieff và Cartwright để bồi thẩm đoàn có thể tự chứng thực sự giống nhau giữa hai người này.”
Ngài thẩm phán gật đầu, và nhân viên của tòa tới nhận một tập ảnh từ người trợ lý của Pearson. Anh ta đưa hai bức ảnh cho ngài thẩm phán, sau đó phân phát số ảnh còn lại cho các thành viên bồi thẩm đoàn. Pearson tựa người lên ghế chờ đợi cho tới khi ông ta cảm thấy hài lòng về thời gian mỗi thành viên bồi thẩm đoàn đã có để xem xét các bức ảnh. Khi họ đã xem xong, ông ta nói, “Bây giờ tôi sẽ mô tả lại Cartwright đã lợi dụng sự giống nhau này như thế nào bằng cách cắt ngắn tóc và đổi giọng nói để lợi dụng cái chết bi thảm của Nicholas Moncrieff. Và thủ lợi theo đúng nghĩa đen trên thực tế là những gì bị cáo đã làm. Tuy nhiên, như với mọi tội ác đặc biệt táo tợn khác, ở đây cũng đòi hỏi một chút may mắn.”
“Điều may mắn đầu tiên là việc Moncrieff nhờ Cartwright cầm hộ một sợi dây chuyền bạc có gắn một chiếc chìa khóa, một chiếc nhẫn có cẩn con dấu riêng của gia đình anh ta, cùng một chiếc đồng hồ có chạm hình hai chữ cái đầu tên của Moncrieff mà anh này luôn đeo trên tay, trừ những lúc đi tắm. Điều may mắn thứ hai là Moncrieff có một kẻ đồng lõa đã tình cờ có mặt đúng chỗ vào đúng thời điểm.”
“Đến đây, thưa bồi thẩm đoàn, quý vị chắc hẳn đang muốn hỏi làm cách nào Cartwright, một kẻ đang thụ án hai mươi hai năm tù vì...”
Alex đứng bật dậy chuẩn bị phản đối thì ngài thẩm phán lên tiếng, “Không thêm một lời nào nữa theo hướng đó, ông Pearson, trừ khi ông muốn thử thách sự kiên nhẫn của tôi.”
“Tôi xin lỗi, thưa ngài thẩm phán,” Pearson nói, hiểu rõ rằng bất cứ thành viên nào của bồi thẩm đoàn đã không theo dõi những diễn biến được đăng tải trên báo chí có liên quan tới vụ án này trong sáu tháng vừa qua lúc này cũng không còn chút nghi ngờ nào về tội danh đã khiến Cartwright bị kết án ban đầu.
“Như tôi đã nói, quý vị có thể thấy khó hiểu tại sao Cartwright, người đang thụ án hai mươi hai năm tù, lại có thể hoán đổi danh tính của mình với một tù nhân khác vốn chỉ bị kết án tám năm và quan trọng hơn nữa, người này lại chuẩn bị được thả tự do sau đó sáu tuần. Tất nhiên ADN của họ sẽ không khớp, nhóm máu của họ rất có thể không hề trùng nhau, và hồ sơ nha khoa của hai người chắc chắn hoàn toàn khác biệt. Đây chính là lúc điều may mắn thứ hai diễn ra,” Pearson nói, “bởi vì những sự kiện tiếp theo không thể nào xảy ra được nếu Cartwright không có một kẻ đồng lõa đang thực hiện công việc quét dọn tại bệnh xá của nhà tù. Kẻ đồng lõa này là Albert Crann, người thứ ba cùng chung phòng giam với Moncrieff và Cartwright. Khi hắn nghe được tin về vụ treo cổ tự sát trong nhà tắm, hắn đã tráo tên của hai người trên nhãn hồ sơ y khoa tại bệnh xá, vì thế khi bác sĩ khám nghiệm tử thi, ông vẫn đưa ra kết luận sai lầm Cartwright là người đã tự vẫn, chứ không phải Moncrieff.”
“Vài ngày sau đó tang lễ diễn ra tại nhà thờ St Mary ở Bow, tại đó thậm chí cả gia quyến của bị cáo, bao gồm người mẹ đứa con của bị cáo, đều bị thuyết phục rằng thi thể được chôn dưới huyệt mộ là của Daniel Cartwright.”
“Quý vị có thể đang tự đặt cho mình câu hỏi, loại người nào có thể sẵn sàng lừa dối cả gia đình mình như vậy. Tôi sẽ trả lời cho các vị đó là loại người nào. Chính là người này,” ông ta nói, đồng thời chỉ về phía Danny. “Bị cáo còn có đủ lạnh lùng để xuất hiện tại tang lễ dưới lốt Nicholas Moncrieff để có thể tận mắt chứng kiến tang lễ của chính mình và đảm bảo chắc chắn âm mưu của mình đã trót lọt.”
Một lần nữa Pearson lại ngồi xuống tựa người vào ghế để ý nghĩa những lời ông ta vừa nói có thời gian ngấm vào những bộ óc của bồi thẩm đoàn. “Từ ngày Moncrieff chết,” ông ta nói tiếp, “Cartwright luôn đeo chiếc đồng hồ của Moncrieff cùng với chiếc nhẫn, sợi dây chuyền và chiếc chìa khóa nhằm đánh lừa nhân viên nhà tù cũng như các tù nhân khác tin rằng bị cáo chính là Nicholas Moncrieff, người chỉ còn phải thụ án thêm sáu tuần nữa.”
“Vào ngày mười bảy tháng bảy năm 2002; Daniel Cartwright bước ra khỏi cổng trước nhà tù Belmarsh như một người tự do, bất chấp việc bị cáo còn phải thụ án hai mươi năm nữa. Liệu vượt ngục trót lọt đã là đủ với bị cáo chưa? Xin thưa là chưa đủ. Bị cáo lập tức bắt chuyến tàu đầu tiên đi Scotland để đòi quyền sở hữu lãnh địa của gia đình Moncrieff, sau đó quay lại London để sống tại ngôi nhà của Sir Nicholas Moncrieff tại The Boltons.”
“Nhưng như vậy chưa phải đã hết, thưa bồi thẩm đoàn. Cartwright sau đó đã thản nhiên xúc tiến việc rút tiền mặt ra từ tài khoản của Sir Nicholas Moncrieff tại ngân hàng Coutts ở phố Strand. Tiếp theo, bị cáo bay tới Geneva để gặp chủ tịch Coubertin và Công ty, một ngân hàng hàng đầu tại Thụy Sĩ, đồng thời trình ra trước ông chủ tịch ngân hàng chiếc chìa khóa bằng bạc cùng hộ chiếu của Moncrieff. Những vật này cho phép bị cáo tiếp cận căn phòng cất giữ bộ sưu tập tem đã trở thành huyền thoại của người ông nội đã quá cố của Nicholas Moncrieff, Sir Alexander Moncrieff. Cartwright đã làm gì khi bị cáo chạm được tay vào món tài sản thừa kế quý giá của gia đình mà Sir Alexander Moncrieff đã phải bỏ ra hơn bảy mươi năm để tập hợp lại? Bị cáo đã bán đi ngay ngày hôm sau cho người đầu tiên xuất hiện và trả giá, thản nhiên bỏ túi một món hời hai mươi lăm triệu bảng.”
Sir Matthew nhướng một bên mày lên. Thật không giống Arnold Pearson khi khởi động bình thản như vậy.
“Nhờ đó giờ đây Cartwright đã trở thành một triệu phú,” Pearson tiếp tục, “quý vị có lẽ sẽ tự hỏi tiếp theo bị cáo sẽ làm gì. Tôi sẽ cho các vị biết ngay đây. Bị cáo bay trở lại London, mua cho mình một chiếc BMW loại đầu bảng, thuê một lái xe riêng và một người quản gia, định cư tại The Boltons và tiếp tục loan truyền truyện bịa đặt rằng bị cáo chính là Sir Nicholas Moncrieff. Và, thưa bồi thẩm đoàn, rất có thể bị cáo ngay lúc này đây vẫn đang tiếp tục sống dưới tấm bình phong bịa đặt đó nếu không có sự nhạy bén nghề nghiệp của Chánh thanh tra Fuller, người đã bắt giữ Cartwright khi bị cáo phạm tội lần đầu năm 1999, và cũng là người hôm nay đã một mình” - Sir Matthew ghi lại hai từ cuối cùng - “lần theo dấu vết, bắt giữ bị cáo và đưa ra trước công lý. Thưa bồi thẩm đoàn, đây là lý do khởi tố vụ án này. Nhưng tiếp theo đây tôi sẽ mời ra trước tòa một nhân chứng, người sẽ khiến quý vị không còn chút nghi ngờ nào về việc bị cáo Daniel Cartwright có tội với cả năm tội danh trong bản cáo trạng.”
Khi Pearson quay về chỗ ngồi, Sir Matthew quay sang phía đối thủ lâu đời của ông và đưa tay lên trán như thể đang nhấc một chiếc mũ vô hình. “Hoan hô,” ông nói.
“Xin cảm ơn, Matthew,” Pearson đáp.
“Thưa các vị,” ngài thẩm phán nói, đồng thời nhìn đồng hồ, “tôi nghĩ đã đến thời điểm thích hợp để tạm nghỉ ăn trưa.”
“Bãi tòa,” người mõ tòa hô lớn, tất cả chức sắc lập tức đứng lên, cúi chào. Thẩm phán Hackett cúi chào đáp lại rồi rời khỏi phòng xử án.
“Không tệ,” Alex thừa nhận với bố anh.
“Bố hoàn toàn đồng ý, mặc dù ông bạn già Arnold đáng mến đã phạm một sai lầm rất có thể sẽ khiến ông ta phải ân hận.”
“Đó là gì vậy?”Alex hỏi.
Sir Matthew đưa cho con trai mảnh giấy trên đó ông đã ghi lại hai từ, một mình.
Danh sách chương