Jane

Sau khi tỉnh lại, Sở Dương Băng đang đứng trên một con đường. Khi bước vào câu chuyện trang phục trên người của cậu đã thay đổi, Sở Dương Băng đang mặc một chiếc áo choàng rộng phủ kín người. Ngoài trừ đôi mắt lộ ra bên ngoài, thì từ đầu đến chân cậu đều bọc kín đến mức gió thổi không lọt, không hở ra bất kỳ tấc da tấc thịt nào.

Đứng ở bên cạnh Sở Dương Băng là những người cũng ăn mặc giống như cậu, Sở Dương Băng âm thầm tìm kiếm Lục Phi Trầm trong đám người này. Bỗng có một người đi đến bên cạnh cậu, Sở Dương Băng vừa liếc mắt đã nhận ra ngay người này là Lục Phi Trầm.

Sau khi Sở Dương xác định Lục Phi Trầm đã đứng bên cạnh mình, cậu mới bắt đầu quan sát tình cảnh xung quanh.

Lúc này cả bọn đang đứng trên một con đường lát bằng đá, những người dân đang vội vàng đi trên đường đều ăn mặc gần giống bọn họ.

Hai bên đường là những ngôi nhà đá thấp bé, giữa những căn nhà đều là ngõ hẹp quanh co âm u chật chội, những lát đá trong ngõ đều đã bị mài đến mức bóng loáng, đâu đâu cũng đầy dấu vết loang lỗ cũ rích. Nhà đá ở đây cái này chồng lên cái kia, tầng tầng lớp lớp chi chít chằng chịt, có thể nhận ra đây là một thành trấn tương đối có quy mô.

Toà thành nhỏ này mang đến ấn tượng đầu tiên cho Sở Dương Băng chính là, y hệt thành phố Jerusalem [1] ở ngoài hiện thực.

Dấu vết thời gian được khắc giữa những mái hiên bằng gạch, những người đang đi lại là dân chúng từ thời quá khứ.

Nhưng thành phố nhỏ bé thoạt nhìn tưởng như rất có lịch sử này, lại bị bao phủ trong bóng đêm của ôn dịch.

Cư dân đi trên đường đều che chắn cơ thể một cách kín kẽ, cố gắng ngăn chặn chính mình với vùng không gian này, bầu không khí vốn mang lại sự sống nay tưởng như biến thành chất kịch độc.

Trên những con đường mòn quanh co đặt vài bộ thi thể, có người mặc áo choàng đen lôi theo xe ba gác thu gom xác chết dọc đường, xác chết nhiều lắm, xe ba gác chứa không xuể. Có mấy cái xác vừa được quăng lên xe đã lăn từ trên đống xác xuống rơi trên đường phố. Người nhặt xác cũng không quay lại, thi thể cứ thế bị vứt trên đường, người người lui tới vội vàng đi qua, tựa như đã quá quen với nhưng xác chết như thế này.

Trên đường còn có một vài người mặc áo choàng trắng, họ cầm chiếc lọ trong tay phẩy nước ra không khí, miệng lẩm bẩm gì đó.

Có một vài căn nhà đá âm u bị người khác vẽ lên chữ “chết” bằng sơn đỏ, bên trong phát ra những tiếng rên rỉ vụn vặt. Có vài đứa trẻ đá những chiếc đầu lâu chạy qua hẻm nhỏ u ám, bầu không khí mục nát mãi không tiêu tan, cái chết theo sát như hình với bóng.

Đây là một toàn thành đã chết lặng, tuyệt vọng bao trùm, suy thoái cắm rễ.

Bỗng nhiên có người vỗ nhẹ lên vai Sở Dương Băng, đó là hai người có thân hình mảnh mai thon gầy, Sở Dương Băng nhận ra họ chính là Lilith và Giang Chi Nhu.

“Chị Lilth, chị Nhu.” Sở Dương Băng hỏi hai người: “Sao hai người cũng vào câu chuyện này?”

Ánh mắt mà Lilith nhìn Sở Dương Băng có hơi quái lạ, cô nói: “Câu này phải là tôi hỏi cậu mới đúng, câu chuyện này là của chị, cũng là của Chi Nhu. Bọn này cùng bị câu chuyện chọn lựa, không ngờ tới cậu cũng bị chọn vào.”

Lilith và Giang Chi Nhu cùng bị chọn vào một câu chuyện đã là xác suất cực thấp, nếu so sánh thì kỳ thật, thực lực của họ không hề thua kém nhau. Giang Chi Nhu bởi vì yêu chồng con nên thường xuyên cọ những câu chuyện tương đối đơn giản, còn Lilith thì có thói quen lâu lâu sẽ tiến vào một vài câu chuyện có độ khó khá cao. Cho nên số lần Giang Chi Nhu vào sách nhiều hơn Lilith, nhưng Lilith lại tham dự những câu chuyện có độ khó cao hơn Giang Chi Nhu.

Hai người họ thực lực xấp xỉ nhau, vì vậy khi cả hai cùng được chọn tiến vào câu chuyện này, Lilith và Giang Chi Nhu tuy có ngạc nhiên nhưng cũng không nghĩ quá nhiều.

Nhưng nếu cả Sở Dương Băng cũng bị chọn trúng, Sở Dương Băng bị chọn đồng nghĩa với Lục Phi Trầm cũng sẽ tham dự. Bốn người họ vậy mà cùng ở trong một câu chuyện, câu chuyện lần này e rằng có gì đó bất thường.

Lilith âm thầm cảnh giác trong lòng, lúc này những người chơi khác đi tới nói chuyện: “Đều là người có thâm niên hết rồi, mọi người cùng trao đổi tên tuổi ra đi, tiếp theo chúng ta cần phải hợp tác với nhau rồi.”

Người tham dự câu chuyện lần này tính luôn đám người Sở Dương Băng tổng cộng có bảy người, người bước ra nói chuyện là một nam giới, y nói: “Tôi tên là Lương Hữu.”

Hai người còn lại đều là nữ giới.

“Phương Tình Mỹ.”

“Tiền Tử Sam.”

Bốn người Sở Dương Băng cũng giới thiệu tên mình ra.

Người đàn ông tên Lưu Hữu rất khôn khéo, y nói: “Xem ra những cư dân ở đây đang cùng đi đến một hướng nào đó theo sự dẫn dắt của đám người mặc áo choàng trắng, bây giờ chúng ta chưa biết gì về câu chuyện lần này, chi bằng cũng đi đến đó xem thử.”

Trên đường đầy ắp những cư dân ăn mặc rách rưới như xác chết di động, chỉ có những người mặc áo choàng trắng này thoạt nhìn khá quái lạ.

Nhưng họ còn chưa kịp thảo luận tiếp, thì đã có một người mặc áo choàng trắng phát hiện ra bảy “cư dân” đang đứng trên đường không nhúc nhích này.

Người mặc áo choàng trắng kia hống hách gọi họ: “Đám dân đen chúng mày còn đứng đó làm gì? Mau đi tới nhà thờ nghe giám mục dạy bảo!”

Thì ra những cư dân này phải đến nhà thờ, vừa nghe tới hai chữ nhà thờ, Sở Dương Băng liền nghĩ ngay tới “Nhà thờ xương người” mà gợi ý đưa ra.

Sở Dương Băng cùng Lục Phi Trầm liếc mắt nhìn nhau, tình huống bây giờ cũng không cho phép bọn họ không đi.

Mấy người họ tuy không biết nhà thờ ở đâu, nhưng chỉ cần di theo những cư dân vội vã trong thành họ đã thuận lợi đi tới quảng trường trước nhà thờ.

Trước quảng trường có một đám kỵ sĩ mặc áo giáp sắt đang vây ra một khoảng đất trống, những tên kỵ sĩ đứng yên này khiến Sở Dương Băng có một loại cảm giác quen thuộc, chúng hình như…..rất giống hai con rối kỵ sĩ trong lâu đài của Cappadoccia.

Bên trong vùng đất trống này là một chiếc thánh giá đứng sừng sững cao hơn người, bên dưới thánh giá xếp đầy củi gỗ, bên cạnh còn rải dầu hoả.

Kiến trúc của nhà thờ ở phía sau quảng trường vô cùng huy hoàng tráng lệ, nhưng vừa nhìn cũng đã nhận ra dấu tích của năm tháng. Chẳng qua đây cũng là điều dễ hiểu, nếu so với Nhà thờ Đức bà Paris thì công trình này có thể còn phải tốn hơn một trăm năm mới hoành thành xong.

Trên đài cao của nhà thờ lớn, giám mục mặc áo choàng màu đỏ đang cao giọng nói với những cư dân tập trung nơi đây: “Những cư dân của nơi đây, toà thành này từng là nơi Chúa Cha yêu thương, nơi đây đã từng trải đầy hoàng kim châu báu, hàng hoá khắp mọi nơi trên thế giới đều đổ về đây, rồi mới luân chuyển vào nội địa. Nơi đây đã từng giàu có màu mỡ biết bao, nơi đây đã từng thơm tho bởi mùi lương thực biết bao.”

“Ở phía sau chính là nhà thờ lớn mà các ngươi luôn lấy làm niềm kiêu ngạo. Nó được xây dựng bởi tay của kiến trúc sư vĩ đại nhất, là vết tích mà Cha trên cao mượn đôi tay của loài người, lưu giữ lại trên chốn nhân gian này.”

“Nhưng giờ đây, dịch bệnh bao phủ lên toà thành vinh quang của quá khứ, cái chết thách thức uy quyền của Cha trên cao, của những người từng được chọn làm kẻ thống trị.” Khi nói đến đây, giáo chủ bỗng nhiên nhấn mạnh: “Thứ gì đã khiến cho các ngươi lưu lạc đến đây? Thứ gì đã mang đến dịch bệnh? Thứ gì đã huỷ diệt toà thành vinh quang của ngày xưa? Thứ gì đã khiến Chúa Cha từ bỏ các ngươi?”

Những cư dân mặt mày đờ đẫn đứng đầy khắp quảng trường, cái chết, cái chết, cái chết. Trong khoảng thời gian này bọn họ đã thấy quá nhiều cái chết.

Có người đang bước đi trên đường phố bỗng nhiên ngã xuống đất mà chết, có người chết ở trong nhà, mãi đến khi xác đã phân huỷ mới có người phát hiện ra, từng ngày, từng giờ từng phút đều có rất nhiều thi thể bị vận chuyển ra ngoài thành…. Toà thành này cho đến bây giờ, người chết còn nhiều hơn cả người sống, thi thể không kịp thu dọn nằm đầy trên đường phố, so với người sống thì những thi thể này còn giống chủ nhân của toà thành này hơn.

Giám mục đang đứng ở bên kia càng cao giọng nói: “Là ma quỷ! Là nữ phù thuỷ! Là mèo đen!”

Đợi đã, mèo đen trong cửa này là chuyện gì nữa? Giám mục xúc động dạt dào mà diễn thuyết, Sở Dương Băng lại thấy thật hoang đường.

Nếu nói dịch bệnh có liên quan đến ma quỷ hay nữ phù thuỷ cậu còn có thể hiểu, nhưng dịch bệnh thì liên quan quái gì tới mèo đen?

Lời nói tiếp theo của giám mục đã giải đáp thắc mắc cho Sở Dương Băng: “Mèo mang đến dịch bệnh, mèo là sứ giả của phù thuỷ, phù thuỷ là hoá thân của ma quỷ, ma quỷ mang đến dịch bệnh, huỷ diệt thành phố vinh quang mà trước đây Chúa Cha đã che chở!”

“Trong số các ngươi, có người nuôi dưỡng mèo đen của phù thuỷ, chính những mụ phù thuỷ ác độc này đã cấu kết mang dịch bệnh đến, để tử vong cướp mất quyền lực của Chúa Cha!” 

“Chúng ta phải bắt giết tất cả những con mèo đen, giết chết tất cả phù thuỷ, huỷ diệt ác ma!” Giáo chủ lớn giọng nói: “Chỉ có cách này mới cứu vớt được toà thành này!”

“Và trước khi tiêu diệt được dịch bệnh, ta sẽ phong toả thành phố này, để không ai có thể trốn chạy!”

Sau khi nói xong, những kỵ sĩ mặc giáp sắt bên cạnh giáo chú đè chặt một người phụ nữ đang liên tục giãy dụa kêu rên đến trước nền đất trống, sau đó trói cô ta lên thánh giá.

“Đây chính là ả phù thuỷ được dân chúng chỉ ra và xác nhận đã âm thầm nuôi mèo đen, thiêu chết ả ta dịch bệnh mới dừng lại!” Giám mục hô lớn.

Người phụ nữ bị trói trên giàn hoả khóc lóc thảm thiết: “Không phải! Tôi không phải phù thuỷ! Tôi không phải!”

Giám mục không thèm liếc mắt nhìn cô ta lấy một lần, gã thét lên: “Thiêu chết ả!”

Kỵ sĩ xách thùng dầu hoả ở bên cạnh lên, giội lên người cô ta.

Lúc này đây, những cư dân vốn luôn đờ đẫn bỗng nhiên như thấy được tia hi vọng nào đó, họ hô tô với giáo chủ: “Thiêu chết ả! Thiêu chết phù thuỷ!”

“Thiêu chết ả!” Giám mục la lên.

Ban đầu tiếng kêu của đám dân chúng còn yếu ớt, theo từng thùng dầu hoả liên tục giội lên người cô ta mà càng lúc càng lớn hơn.

“Thiêu chết ả!”

Người phụ nữ ở trên giàn hoả kêu gào, tiếng kêu xé ruột xé gan bị tiếng hô của dân chúng lấn át. Người phụ nữ càng tuyệt vọng thì chúng càng như thấy được hi vọng.

Khẩu hiệu “thiêu chết ả” càng ngày càng dâng trào, nó như tiếng trống giận khích lệ tướng sĩ trên chiến trường, cổ vũ cõi lòng tê lặng của dân chúng.

Giám mục mặc áo choàng đỏ giơ cao pháp trượng, hô to: “Thiêu chết phù thuỷ!”

Hô xong gã nâng pháp trượng chỉ về phía giàn hoả.

Dàn kỵ sĩ ném cây đuốc lên giàn hoả, ngọn lửa dần dần bùng lên theo tiếng kêu rên xé lòng cùng tiếng nguyền rủa của người phụ nữ đó.

Từ góc nhìn của Sở Dương Băng chỉ có thể nhìn thấy, bên trong ngọn lửa hừng hực là bóng người màu đen liên tục dãy dụa.

Bị thiêu chết tươi, đây là cái chết đau đớn nhất.

Nhìn thấy cảnh tượng tàn nhẫn này, đám dân chúng không những không thấy sợ hãi, trái lại còn hoan hô vang trời.

Người phụ nữ bị thiêu sống trên giàn hoả, đám người nhảy múa hoan ca, giám mục giơ cao quyền trượng, nhà thờ đại diện cho sự thánh thiện….Cảnh tượng giống như bức tranh sơn dầu thời trung cổ này đã tấn công linh hồn của Sở Dương Băng và những người khác.

Hình phạt bằng lửa này kéo dài mấy chục phút, mãi đến khi ngọn lửa dần dần lụi tắt giám mục mới mở miệng nói tiếp: “Phù thuỷ đã bị xủ tử, dịch bệnh sắp chấm dứt, nếu như dịch bệnh vẫn hoành hành, nghĩa là trong thành vẫn còn phù thuỷ đang ẩn nấp!”

“Ngày mai! Chúng ta sẽ tiếp tục tập hợp như hôm nay, nếu như dịch bệnh chấm dứt, chúng ta sẽ ngợi ca uy danh của Chúa Cha, nếu như dịch bệnh vẫn hoành hành, chúng ta sẽ tiếp tục xử tử mụ phù thuỷ tiếp theo, mãi cho đến khi thành phố này hoàn toàn sạch sẽ mới thôi!”

“Chúng ta là người được Chúa Cha lựa chọn, là dân chúng của thành phố quang vinh này, chúng ta sẽ không bao giờ khuất phục trước cái ác!”

*********************************

[1] Thành phố Jerusalem: là một thành phố ở Trung Đông, nằm trên một cao nguyên thuộc dãy núi Do Thái giữa Địa Trung Hải và Biển Chết. Đây là một trong những thành phố lâu đời nhất trên thế giới và được coi là một địa điểm linh thiêng đối với ba tôn giáo chính khởi nguồn từ Abraham – Do Thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo.

Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện