’Kỳ trận’ hay ’Cờ’, thời đại ở Trái Đất bị mai một mau chóng, đầu thế kỷ 22 đã chỉ còn lác đác người chơi, đến khi TUE phát động chiến tranh thâu tóm thì chính thức chẳng còn ai nhớ đến. Một phần là bởi không một bộ não nhân loại nào có thể chiến thắng Tứ Phân Điện Toán đỉnh cấp Die Mutter, nhất là trên bàn cờ nhỏ, khi mọi thứ đều có quy luật rõ ràng.

‘Tượng kỳ’ (#1) của Hãn Tử Đại đế quốc, ‘Cờ Tướng’ của Bách Việt, ‘Cờ Vua’ của Hợp Phiên, Sa Lập, Tân Phổ tam đại Đế Quốc, ‘Tướng kỳ’ (#2) của Đông Doanh v.v... còn rất nhiều thể loại cải tiến khác, nhưng đều có nguồn gốc duy nhất từ thời Phạn quốc xa xưa, tên gọi ‘Tứ Binh Hý Kỳ’ (#3), là một trò chơi thời cổ đại của hoàng tộc Cổ Phạn quốc. Giang Thành và cả Thập Minh đều phổ biến loại cờ này, luật chơi và quân cờ đều giữ nguyên so với bản gốc, nên đối với Lạc Thạch cũng không quá lạ lẫm.

Trong giải trí dân gian thì là ‘chơi cờ’, còn giữa các bậc Chính trị gia, Chiến lược gia lại gọi là ‘đánh cờ’, nên khiến nhiều người lầm tưởng trong các thế cờ có ẩn giấu huyền cơ dẫn binh thuật. Kỳ thực ‘cờ’ được sáng tạo ra để thoả mãn thú chơi đầu tiên, lấy các hình tượng quân đội ngoài thực tế, tuỳ theo quy định và sức mạnh tương đương mà được mang những chức vụ và khả năng khác nhau. Ván đấu phân định khi con ‘Soái’ của đối phương bị bắt, các quan cờ còn lại chỉ là công cụ, thể hiện rất rõ tư tưởng thời đại này, ‘Quân-Thần-Quan-Dân’. Các thế cờ vì vậy mà không mang nhiều thực tiễn dụng binh, nhưng lại mang đến ‘phương hướng chiến lược’ cho người chơi. Luyện cờ vốn là để rèn rũa ‘tư duy’ nhằm dự đoán thế cục, và ‘tâm lý chiến’ mục đích bắt bài đối phương. Cách giải cờ thế cũng thể hiện tính cách từng cá nhân, và giúp người ta nhìn nhận một vấn đề từ nhiều góc độ khác nhau, qua đó trong ‘điều binh khiển tướng’ mới tỏ tường được những miếng đánh để đời, lưu truyền vạn năm.

Nên giỏi cờ thôi cũng không chắc có thể cầm quân đánh giặc, nhưng cam đoan kẻ này tính tình điềm tĩnh, suy nghĩ thấu đáo cẩn mật. Cờ vốn là một môn thể thao cạnh kỹ thuần tuý, nên trước đây gã cũng chỉ lướt qua mà không chuyên sâu. Nhưng giờ mục đích đã khác, luật chơi ‘Tứ Binh Hý Kỳ’ đã được Lạc Thạch thuộc nằm lòng, với trí tuệ của gã, trở thành Kỳ sư tuyệt đối là trong khả năng.

...

Sau giờ ăn tối, bọn trẻ con cũng tập trung hết ở phòng sinh hoạt, bận rộn cả ngày, nên giờ là lúc thoải mái, mỗi đứa tranh thủ làm việc của riêng mình.

Gã cũng lân la ra góc chỗ Kiên, Định chơi cờ, im lặng ngồi xem. Cái nhóm này thì toàn mấy đứa sáng dạ thích yên tĩnh, Lạc Ngôn, Lạc Vinh đang đọc sách, Lạc Niên thỉnh thoảng bình phẩm suy đoán nước đi, khiến dòng suy nghĩ của hai huynh đệ có chút rối bời.

‘Tứ Binh Hý Kỳ’ đứng đầu là con ‘Soái’, ý nghĩa giống quân Vua trong ‘Cờ Vua’. Tứ Binh bao gồm Bộ Binh - Tốt, Kỵ Binh - Mã, Tượng Binh - Tượng, Pháo Binh - Xe, nước đi cũng tương đồng. Riêng quân Hậu quyền năng nhất ‘Cờ Vua’ thời hiện đại, lại là con ‘Vệ’, đại diện cho lực lượng ‘Ám Binh’ bảo tiêu riêng của ‘Soái’, tầm hoạt động cũng chỉ một ô xung quanh, nên trở thành con yếu thứ hai sau con ‘Bộ’ trên bàn cờ. Việc không tồn tại một quân cờ cơ động mạnh mẽ khiến sự đột phá tư duy chiến thuật ở Tứ Binh Hý Kỳ là rất hiếm. ‘Cờ Vua’ thay con ‘Vệ’ bằng quân Hậu, Tốt có thể ‘hoá thân’ khi chạm tới cuối bàn, ‘Tượng Kỳ’ và ‘Cờ Tướng’ phải sinh thêm Xạ Binh tức quân Pháo, ‘Tướng Kỳ’ sáng tạo luật ‘thả quân’ và ‘thăng cấp’, bổ sung các quân cờ Ngân tướng, Kim tướng, Hương xa v.v... đều nhằm mục đích mở rộng và nâng cao độ khó, cũng như phù hợp với văn hoá và sức mạnh quân sự ở quốc gia đó.

Lạc Định đang nắm thế chủ động trong tàn cuộc, khiến Lạc Kiên đăm chiêu, đã ngồi suy nghĩ gần mười phút. Gã chọn đúng thời điểm này lên tiếng.

“Kiên ca, bàn này chỉ còn một nước kéo huề, không còn khả năng chiến thắng a...”

Cả hai huynh đệ lẫn mấy đứa xung quanh nghe vậy đều ghé mắt nhìn Lạc Thạch, rồi ngó xuống ván cờ trước mặt.

Lạc Ngôn liền cười toe, giơ ngón cái tán thưởng, Lạc Vinh, Lạc Kiên vẫn đăm chiêu, nhíu mày rồi cùng đồng thanh gật gù “Công nhận, Bát đệ ván này chơi rất tốt”.

Tàn cục cờ thế đối với người chơi kinh nghiệm cũng dễ dàng đoán định kết quả, tuy nhiên vị tiểu đệ đệ này thực sự rất thông minh, ở tuổi này mà có thể nhìn ra, quả thật gây sửng sốt không nhỏ. Gã le lưỡi không nói gì, nhưng trong đầu thì đang thầm đáng giá, hình như thể hiện chưa xuất sắc lắm thì phải, bọn trẻ con thế giới này vì phải lao động từ nhỏ nên tâm lý phát triển sớm, sự đề phòng hoài nghi cũng cao hơn so với ở Trái Đất, nên cũng không đơn giản mà câu dẫn như lấy kẹo ra lừa được.

“Phàm tiểu đệ, quả nhiên năng khiếu chơi cờ rất tốt nha”, Lạc Niên cũng quay ra nhìn gã khen ngợi “Ca ta cũng đã để ý, đệ đệ mấy hôm nay đều đọc Kỳ Thư, có muốn thử sức chơi cùng không?”

“Ý tưởng không tồi, nhưng hôm nay thật chưa có hứng, cũng chưa phải lúc”, nghĩ thì nghĩ vậy, Lạc Thạch vẫn từ chối khéo “Có lẽ để đệ tự nghiền ngẫm thêm chút nữa cho thuần thục, rồi hôm sau nhất định sẽ xin chơi cùng các huynh a”.

Mấy đứa lại tặc lưỡi nhún vai xếp lại bàn cờ, dù gì vẫn còn gần cả tiếng nữa mới đến giờ đi ngủ, nên liền tranh thủ chơi thêm ván nữa. Lạc Thạch nán lại một chút, rồi cũng xin phép rời đi, trở về phòng gỗ của mình, trên đường còn lẩm bẩm, khiến Nạc lão nhảy mũi mấy phát không yên.

“Bước đầu vậy là ổn, vãn bối sẽ tìm cách bồi cờ riêng với hai huynh đệ đó. Tiểu hài đồng mà thôi, còn chưa phải lão ma đầu kinh lịch ngàn năm, hê hê”.

...

Trở về phòng mình, chưa thấy Mục tử về, gã cũng không thấy làm lạ, nó chắc giờ này đang vùng vẫy đâu đó trong Vạn Thụ Sương Lâm rồi. Tinh Hồn Mục tử cực mạnh, còn có một ‘người cha’ nào đó mà nhắc tới là nó rét run, nên muốn nó gặp mệnh hệ gì cũng rất khó. Tặc lưỡi không nghĩ nhiều nữa, Lạc Thạch trèo lên giường xếp bằng, dần bước vào trạng thái Thiền Định.

Nặc lão trong một tháng qua đã thấy nhiều tư thế quái đản được bày ra, lão cũng im lặng quan sát rồi tò mò bắt chước thử. Tuy vậy cái ‘Do Ngã Thiền Pháp’ này lại chẳng mang lại tác dụng gì đặc biệt, nên lão cũng đành buông xuôi.

Một lúc sau, Lạc Thạch thanh tỉnh trở lại, hô hấp có cảm giác càng lúc càng dài, ‘trọc khí’ thổ ra rất ít, mà khí tức cũng lờ mờ định hình ẩn hiện. Cảm nhận cơ thể hồi lâu, gã cất tiếng hỏi.

“Nặc lão, thân thế của Liệp Nhân Vũ này, chính thức là ra sao?”

“Ừm, ta ẩn cư nhiều năm trước khi bị truy sát, từng chọn Liệp Gia Thôn làm chốn an yên. Trong thôn có phu thê Liệp Đại Bưu, người vợ vì ốm yếu triền miên mà cầu tứ phương, lão phu lúc đó nhàn hạ không có việc gì làm, nên xử ra chút y thuật. Không chỉ căn bệnh hư nhược mãn tính được chữa khỏi, thậm chí sau đó còn hiếm muộn hoài thai. Cái tên Nhân Vũ, cũng là do hai vợ chồng họ vì tạ ân mà muốn ta đặt cho hài tử này. Chỉ tiếc, là lão phu liên luỵ cả thôn a...”

Trầm ngâm suy nghĩ, gã dù không có thân bằng máu mủ gì, cũng phải thở dài cảm thán, đồ sát cả một thôn trong chớp mắt, mồ côi cha mẹ, số phận hài tử Liệp Nhân Vũ này, coi như cũng chỉ giống ngọn cỏ ven đường mà thôi. Nghĩ đặng liền chuyển đề tài, Lạc Thạch lên tiếng thắc mắc về vấn đề mà gã quan tâm nhất từ khi đến đây: ‘Tu Nguyên’ và ‘Luyện Thần’.

Như đã nói, phàm nhân vì cơ duyên mà bước vào Dựng Khí Cảnh, tạo Tụ Khí Châu. Lúc đó, Nê Hoàn Cung của Tu Nguyên Giả sẽ chủ động tự thoái hoá, ‘cuốn lấy’ Nguyên Tố bất kỳ trong Thiên Địa, trở thành Kết Chủng. Thứ này bí ẩn kỳ lạ, chỉ biết nó sẽ lưu lại thành một Ấn Ký nhỏ đặc trưng trong Tinh Hồn, có thể truyền thừa xuống theo đường huyết mạch. Vì vậy Tu Nguyên Giả ngoài lấy Nguyên Khí chi Lực vận chuyển thành lực lượng, thì còn phối hợp thêm Kết Chủng Nguyên Tố để thi triển Võ kỹ mang Thuộc Tính, hay nói cách khác, họ sẽ có lợi thế hơn nhiều khi tu luyện công pháp thuận theo Kết Chủng bẩm sinh. Thiên tư của Tu Chân giả, dựa trên tuổi tác lần đầu khai thông chỉ là một nhận định nhỏ, mà quan trọng là, có bao nhiêu Kết Chủng được ngưng tụ.

Tư chất tầm thường nhất, chỉ một thuộc tính gọi là ‘Huyết Mạch Truyền Thừa’, con cháu họ nếu có cơ duyên thường cũng do tổ tiên đi trước để lại.

Ngoài ra, đạt được hai Kết Chủng thôi đã là hiếm có, và cái này là đột biến trong huyết mạch, có thể di truyền xuống, nhưng không nhất định là ai trong gia tộc cũng đều đạt được, nên mới có tên ‘Huyết Kế Giới Hạn’.

Ba cái Kết Chủng, tuyệt đối là xương bánh đúc nước cổ chày, tồn tại một hai. Tu Chân giả như vậy đều mang trong mình những Thuộc Tính phối hợp rất kỳ lạ và khó lường, tuy vậy, dù tỉ lệ cực nhỏ nhưng vẫn có thể di truyền. Cái này kêu là ‘Phản Tổ Truyền Thừa’, bởi gia tộc nào sản sinh được Cường giả bậc nầy, chắc chắn phát dương quang đại, quật khởi một phương.

Trong Thiên Địa tồn tại vô số Nguyên Tố Thuộc Tính, từ những cái ‘dễ’ hình dung cảm ngộ nhất như Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ v.v... tới những cái thâm áo hơn dạng Lôi, Phong,... và cuối cùng là Thời, Không, Sinh, Tử v.v... thì vô kế nắm bắt. Với hiểu biết của Nặc lão, còn chưa thấy ai có được nhiều hơn ba Kết Chủng, tồn tại khác cũng chỉ là truyền thuyết thêu dệt, coi như mạnh mẽ hơn cả Viễn Cổ tổ tông.

“Thêm một điều nữa, đó là số lượng Kết Chủng lại cũng không quan trọng bằng mức độ thuần thục của Tu Chân giả, và càng kém xa Nguyên Tố cấp bậc được cảm ngộ”, Nặc lão chậm rãi kết luận “Tỉ như, kẻ vô tình có được Thổ-Mộc Nhị Kết Chủng chẳng hạn, chưa chắc chiến lực đã hơn kẻ chỉ có Mộc Kết Chủng nhưng đã được khống chế lô hoả thuần thanh, và kém hơn Tu Chân giả cảm ngộ ra Lôi chi Nguyên Tố. Bất quá, Kết Chủng gì còn phải xem cơ duyên của người đó, gần như không thể cưỡng cầu”.

“Nói như vậy, chắc hẳn phải tồn tại phương thức, để đoán định xem Tu Chân giả có duyên với Nguyên Tố nào, đúng không Nặc lão?”

“Ồ, phương pháp thì được nghiên cứu cả vạn năm rồi, nên đúc rút ra mấy loại cơ bản. Gia tộc, Tông môn ngoài ra cũng có cách riêng không ngoại truyền, gọi chung tất cả là Trắc Chủng”.

Tu Nguyên thì phức tạp như vậy, còn Luyện Thần ‘đơn giản’ hơn một chút. Nê Hoàn Cung tự cải biến thành Nạp Thần Khu, Tinh Hồn lưu lại ‘Niệm Ấn’ chứ không phải Kết Chủng. Thần Niệm lực là do bản thân Luyện Thần giả tự phục hồi, vô phương hấp nạp từ bên ngoài, nên tiền nhân mới coi Thần Niệm là lực lượng tinh tuý của bản ngã, còn Nguyên Khí là kết tinh Thiên Địa, Tu Nguyên giả chỉ có thể lợi dụng nó để rèn rũa sức mạnh. Vì thế, Luyện Thần giả tuỳ vào tư chất, cảm ngộ được bao nhiêu Nguyên Tố Thuộc Tính là không có giới hạn. Khi sử ra, đều lấy Thần Niệm quán vào mà tuỳ nghi khống chế.

Lạc Thạch đăm chiêu, khái niệm Kết Chủng như thế này thì thật quá là hạn chế đi, thế giới quái lạ, tưởng chừng vô pháp vô thiên, nhưng kỳ thực lại quy định rõ ràng, bị ‘Ấn Ký’ áp chế hoàn toàn. Nặc lão có nhắc tới hai từ ‘Thiên Đạo’, gã hiểu nó có ý nghĩa gì. Thời này Tu Chân giả tất nhiên là tin vào một thứ tồn tại siêu nhiên, mang đến các loại thiên tai hoạ kiếp, nhằm gây khó dễ, tiêu diệt những kẻ nghịch thiên tu hành. Còn Mục tử thì lại gọi vật đó là ‘Tri Tuyền’, thậm chí chúng còn ‘giao lưu qua lại’ với nhau, không ai bị khống chế hay đàn áp bởi ai; chỉ đáng tiếc khi trước, gã không hỏi cho kỹ, hiện giờ thì nó còn chả nhớ nó là cái thể loại gì. Lạc Thạch thở dài, lẩm bẩm, đủ để Nặc lão nghe được, cũng liền rơi vào trầm ngâm.

“Thực sự ‘nghịch thiên’ là đúng sao? Hỗ trợ nhau cùng tiến hoá, chân lý này, chả lẽ cũng vẫn nằm dưới ý trí của ‘thiên đạo’?”

(#1): Cờ tướng Trung Quốc, chữ ‘tượng’ trong ‘tượng hình’.

(#2): Shogi của Nhật Bản.

(#3): Chaturanga/Saturanga, trò chơi cờ cổ xưa của quyền quý Ấn Độ, là gốc của mấy loại cờ phổ biến hiện đại.
Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện