Tào Bằng nhất định phải cảm tạ rất nhiều.
Cảm ơn ông trời đã không để cho hắn sinh ra vào thời Minh Thanh mà lại sống lại vào thời đại rung chuyển nhưng văn hóa tương đối khai sáng vào những năm cuối thời Đông Hán...
Trên thực tế, nếu dựa theo học thuật của Nho gia phát triển thì đại khái chia ra làm bốn giai đoạn.
Từ thời Hán cho tới nay, tuy Đổng Trọng Thư phế truất trăm nhà, độc tôn học thuật Nho gia. Đó là cả giai đoạn Nho học ở trong thời kỳ lần mò và hoàn thiện. Nho đã hình thành một đường lối nhưng còn chưa đạt tới đỉnh cao của học thuật. Các nhà nho đang hoàn thiện các loại kinh điển của Nho học. Vì thế mà các loại tư tưởng, các chú thích ở thời đại này có thể nói là rất đa dạng. Nếu ngươi nói có lý thì mọi người sẽ đồng ý. Điều này không hề quan hệ tới việc xuất thân hay danh tiếng. Cũng không phải trăm nhà cùng ganh đua như trong thời Xuân thu chiến quốc. Mà đây là trăm nhà học Nho gia cùng ganh đua.
Trải qua loạn Ngũ Hồ, Nam Bắc giằng co,Huyền học hưng thịnh, phật học cũng từ từ thịnh hành khiến cho trong văn hóa của Nho gia lại tăng thêm rất nhiều nội dung.
Các đại gia tộc sửa đổi huyền nho, phật nho... Trải qua mấy trăm năm cuối cùng thì học đã tạo ra cho Nho gia một hệ thống độc đáo. Rồi sau đó trải qua thời Đường đã làm cho Nho học phát triển rực rỡ... Nếu như nói nhà Nho thời Hán là những người thăm dò tìm ra cái mới thì Nho học thời Đường có thể nói là từ trên cao nhìn xuống, khiến cho mọi nước cùng hướng về. Khi đó Nho gia có thể nói là kiêu ngạo đối diện với thế giới.
Sau thời kỳ nhà Đường tới thời lưỡng Tống. Tâm tính của Nho gia thời Tống khác với thịnh Đường và nhà Hán. Bọn họ chìm trong sự mâu thuẫn và bàng hoàng. Cùng lúc với việc văn hóa phát triển cực cao thì thực lực quân sự lại bị dị tộc chèn ép. Sự đau khổ và tự hào đan xen với nhau từ từ hình thành một thời kỳ hưng thịnh.
Sau nhà Nguyên lại tới nhà Minh... Nhà nho thời Minh cũng đồng dạng sống trong sự mâu thuẫn. Sự hẹp hòi và tự phụ đã tạo ra cái gọi là thanh lưu. Còn về phần nhà Nho đã trên nên bị nô lệ, mất đi cái bản chất ban đầu của văn hóa Nho học.
Nếu Tào Bằng sống lại ở thời thịnh Đường thì lời nói của hắn sẽ bị người ta xem thường, thậm chí không có người thèm để ý. Nếu sống ở thời Tống thì sẽ bị người ta nhạo báng. Còn nếu sống lại vào thời Minh thì hắn sẽ là một người bất kính. Bởi vì lời nói của hắn vào một mức độ nhất định đã động chạm tới quyền lợi của sĩ phu. Ngay cả một người không biết chữ mà cũng bảo là có học vấn? Vậy thì những đại thi hào học đủ mọi thi thư đang ở đâu? Vì vậy phải nói là hắn may mắn. Hắn sinh vào những năm cuối thời Đông Hán. Mặc dù đây là thời kỳ rung chuyển nhưng học thuật lại đang vào thời kỳ khai sáng. Các loại tư tưởng đan xen, giao thao, dung hợp với nhau. Vì vậy mà cho dù Tào Bằng có nói cái gì thì chỉ cần có lý sẽ được thế nhân coi trọng.
Lúc này, Bộc Dương Khải không còn dùng thái độ coi thưởng để hỏi Tào Bằng. Thậm chí lão còn dùng cái giọng thỉnh giáo và ngang hành để giao lưu với Tào Bằng.
Có lẽ Tào Bằng cũng không biết rằng những lời nói của hắn hôm nay sẽ ảnh hưởng rất nhiều tới tương lai của mình.
Tào Bằng đang trong trạng thái hưởng thụ nên cũng không chú ý nhiều tới Bộc Dương Khải.
- Người nghiên cứu học vất thì nhất định phải chuẩn bị sẵn sàng. Mà chuẩn bị cái gì? Tiểu tử nghĩ đó là hưởng thụ sự cô quạnh.
Bộc Dương Khải lặng đi một chút, nghi hoặc nhìn Tào Bằng rồi chờ hắn giải thích.
Tào Bằng bằng nói:
- Quân tử có những việc nên hoặc không nên làm. Cái gì cần tới nghĩa thì phải làm là chuyện đương nhiên. Khổng Tử là một người cô quạnh. Mặc dù người có ba ngàn đệ tử nhưng cũng không phải là người giàu sang phú quý. Nhưng có thể nói những việc người làm cả đời thì có bao nhiêu người có thể hiểu? Đúng như ngài nói, trong ba nghìn đệ tử có lẽ chỉ có Nhan Hồi (1). Ngoại trừ người đó ra cho dù là Tằng Tử, Tử Cống cũng không ai hiểu được.
Nhưng ngài còn có thể giữ vững sự bần cùng, kiên trì với lý tưởng của mình. Vì vậy mà tiểu tử nghĩ rằng, học vấn của Khổng Phu tử là vì quốc gia, thiên hạ, vì thiên thu muôn đời sau. Không người nào có thể hiểu được sự cô quạnh của ngài. Khổng Tử ở thời Xuân Thu từng nói rằng "Tri ngã giả kỳ duy Xuân Thu hồ, tội ngã giả kỳ duy Xuân Thu hồ!" (Người biết ta cũng chỉ ở Kinh Xuân Thu (2), người trách tội ta cũng chỉ ở Kinh Xuân Thu). Năm trăm năm sau, Thái Công (sử ký Tư Mã Thiên) sáng tác sử ký xếp Khổng Tử và nhóm thế gia. Đổng Trọng Thư trục xuất trăm nhà độc tôn Nho gia... Tiên sinh. Khổng phu tử chịu đựng năm trăm năm cô quạnh mà được người ta chấp nhận. Người ta thường nói có được người tri kỷ thì có chết cũng không đáng chết. Nếu Khổng Tử có linh thiêng mà biết năm trăm năm sau có người hiểu mình, tôn sùng mình thì có coi là tri kỷ không? Có phải là bằng hữu không? Cho dù thì nào thì dưới cửu tuyền ngài cũng sẽ thoải mái.
Nét mặt Bộc Dương Khải thay đổi.
Nét mặt Đặng Tắc cũng thay đổi...
Tri kỷ?
Bộc Dương Khải đội nhiên ngửa mặt lên trời mà thở dài:
- Nếu Khổng Phu tử có biết tám trăm năm sau có người tri kỷ như ngươi thì lại càng thêm cao hứng.
Trong lòng lão có một thứ cảm xúc không thể nói thành lời. Bộc Dương Khải thường tự hào mình là nhà nho. Y nghiên cứu thơ Hàn, chăm đọc Chu lễ, tự nhận là một người hiểu rõ về Xuân Thu. Có thể nói y đọc Xuân Thu mấy chục năm mới hiểu được Xuân Thu và luận nhưng phải nghiên cứu nhiều như vậy mới có thể hiểu được nó.
Tri ngã giả kỳ duy Xuân Thu hồ, tội ngã giả kỳ duy Xuân Thu hồ!"
Đây là một sự cô quạnh tới mức độ nào? Khổng phu tử! Cho dù ngài có ba ngàn đệ tử thì có ai có thể thực sự hiểu người?
Ít nhất ta không làm được điều đó.
- Như vậy có người hiểu được mà không hờn....
- Đủ rồi!
Bộc Dương Khải đột nhiên cắt đứng lời nói của Tào Bằng rồi đứng dậy. Y hướng về phía Tào Bằng mà chắp tay vái chào, sau đó thở dài nói:
- Khổng Tử viết trong ba người đi cùng tất cả một người là thầy của ta. Cho đến hôm nay ta mới thực sự hiểu được điều đó.
- Tiên sinh...
- Hữu Học! Ta hơi mệt, muốn về nghỉ ngơi một chút. Nếu có chuyện gì thì để ngày mai nói sau.
Nói xong, Bộc Dương Khải xoay người rời đi. Dưới ánh đèn tù mù, cái lưng của y có chút hơi còng xuống. Bộc Dương Khải giống như già hơn rất nhiều. Bước chân mạnh mẽ trước đây vào lúc này hơi tập tễnh giống như một người mất hồn.
Y nghiên cứu cả đời cuối cùng phát hiện ra cơ bản mình không biết gì về Khổng Phu tử. Nếu như người nói những lời đó là Khổng Dung, Chung Do, Trịnh Huyền...hay cho dù là Đặng Tắc thì Bộc Dương Khải ít nhiều còn thấy dễ chịu một chút. Nhưng những lời đó lại xuất phát từ một đứa bé mới có mười bốn tuổi thì còn ai dám xưng là đã đọc thi, luận nữa?
Thật ra nếu ở thời hậu thế, dưới cách mạng văn hóa, tất cả con chó con mèo đều lên trên TV thì những lời của Tào Bằng cũng chẳng có gì đặc biệt. Nói không chừng khi hắn nói xong, còn bị người ta chửi bới là điên.
Sau khi tốt nghiệp, Tào Bằng có mua một quyển Luận Ngữ tuyển chọn. Lúc đầu hắn chỉ đọc cho biết nhưng sau mỗi lần đọc lại hiểu ra được một chút. Vì vậy mà hắn nhớ rất sâu đối với ba bản Luận Ngữ tuyển chọn.
Những năm cuối thời Đông Hán, sách không được phát triển lắm. Những bản khắc in ấn vẫn còn chưa xuất hiện chứ đừng nói là thuật in ấn... Rất nhiều người đọc sách dựa vào bản sao. Nhưng trong nhà đám sĩ phu phần lớn là một cuộn thẻ tre nặng trịch. Rất nhiều người đọc thi những lại không biết tới Luận. Học qua Xuân Thu nhưng lại không biết tìm đâu ra Thượng Thư.
Mà cho dù có người chuyên chú giải về thư tịch thì cũng chỉ lưu truyền trong một phạm vi nhỏ.
Chẳng hạn như tất cả đều biết rằng, Trịnh Huyền là một người chú giải về Hán thư, Thượng thư nhưng mấy người có thể làm được như vậy? Những quyển sách trong tay sĩ phu có thể nói là vô cùng lạc hậu, có từ rất lâu rồi. Mọi người đọc sách, hay nghiên cứu chỉ có thể nói là tiến hành một cách phiến diện. Còn như cái loại người có được kinh nghiệm từ thời đại tin tức như Tào Bằng thì cảm quan của hắn không mấy người ở thời đại này có thể hiểu được.
Khi Tào Bằng nói tới Luận có thể nói là nói có sách, mách có chứng, thậm chí còn trích dẫn một chút nội dung trong Xuân Thu, Thượng Thư.
Nhưng Bộc Dương Khải lại không có được những điều kiện đó.... Nếu nói y bị luận điểm của Tào Bằng đánh bại thì chẳng bằng nói y bị bại bởi một thế hệ tri thức, một người sông lại từ thời đại thông tin...
Vì vậy cái tâm trạng của Bộc Dương Khải, Tào Bằng không thể hiểu được.
(1): Nhan Hồi, họ Nhan, tên Hồi, tự là Tử Uyên, nên cũng gọi là Nhan Uyên, là con của ông Nhan Do, người nước Lỗ.
Nhan Hồi theo học với Đức Khổng Tử, và là học trò giỏi nhứt trong số các học trò của Đức Khổng Tử.
Nhan Hồi kém hơn Đức Khổng Tử 30 tuổi, thiên tư thông minh, nhanh nhẹn, hiếu học, chuộng Lễ, làm việc gì cũng không lầm lỗi đến hai lần, nói điều gì cũng không cẩu thả, khi giận người nầy không giận lây người kia, đứng đầu khoa đức hạnh trong cửa Khổng.
Đức Khổng Tử thường khen rằng: Ta có trò Hồi, cho nên các học trò ngày càng thân với Ta.
Nhan Hồi nhà nghèo, ở trong ngõ hẹp, giỏ cơm bầu nước, nếu là người khác thì không chịu được mà lo buồn, Nhan Hồi thì tự nhiên vui vẻ, học đạo. Đức Khổng Tử khen là người hiền và có nhân. Năm Nhan Hồi 29 tuổi thì tóc đã bạc trắng.
Lúc Đức Khổng Tử và các môn đệ bị nước Trần và nước Sái vây khổn ở ngoài đồng, không cho đi qua nước Sở, Khổng Tử hết lương thực. Những người đi theo đều ốm, dậy không nổi, nhưng Đức Khổng Tử vẫn dạy các môn đệ, rồi ngâm thơ, đánh đàn, ca hát, không tỏ ra suy yếu.
Tử Lộ (tên là Trọng Do) thấy thế có vẻ giận, đến hỏi:
- Người quân tử cũng có lúc cùng khốn ư?
Đức Khổng Tử đáp:
- Người quân tử trong lúc cùng khốn thì giữ vững, còn kẻ tiểu nhân trong lúc cùng khốn thì làm bậy.
Đức Khổng Tử nhìn mặt Tử Cống (tên là Đoan Mộc Tứ) thấy có vẻ giận, liền nói:
- Này anh Tứ, anh cho ta học nhiều mà biết phải không?
Tử Cống đáp:
- Dạ, đúng thế, không phải thế sao?
Đức Khổng Tử nói: - Không phải đâu! Ta lấy một điều để quán triệt tất cả. (Nhà triết học khác với người thường ở chỗ đó). Đức Khổng Tử biết các học trò còn có chỗ tức tối, bèn gọi Nhan Hồi đến hỏi:
- Này anh Hồi! Kinh Thi có nói: Chẳng phải con trủy, chẳng phải con hổ, ở ngoài đồng vắng. Đạo của ta phải hay sai? Tại sao ta gặp cảnh nầy?
Nhan Hồi đáp:
- Đạo của Phu Tử hết sức lớn lao, nên cả thiên hạ không ai dung nạp được. Nhưng Phu Tử cứ theo đó mà làm, người ta không dung nạp được thì có hại gì! Người ta không dung nạp, nhưng sau nầy người ta sẽ thấy Phu Tử là người quân tử. Đạo không được trau giồi, đó là cái điều mà ta lấy làm xấu hổ. Đạo đã được trau giồi mà vẫn không được dung nạp thì đó là điều xấu hổ của kẻ làm vua một nước. Người ta không dung nạp được Phu Tử thì có hại gì! Về sau người ta sẽ thấy Phu Tử là người quân tử.
Đức Khổng Tử hớn hở cười nói:
- Đúng lắm! Hỡi con người họ Nhan, nếu nhà ngươi lắm của cải thì ta sẽ làm người quản lý của cải cho nhà ngươi.
Sau đó, Đức Khổng Tử sai Tử Cống sang nước Sở yêu cầu vua Sở Chiêu Vương đem binh đến rước, Đức Khổng Tử mới thoát được cái nạn ấy.
(2): Kinh Xuân Thu là bộ sách của Khổng Tử làm ra. Ngài theo lối văn làm sử mà chép truyện nước Lỗ, kể từ Lỗ Ẩn Công đến Lỗ Ai Công. Trong sách ấy chép cả việc nhà Chu (Châu) và việc các nước chư Hầu.
Xem hình thể bề ngoài thì là một bộ sử biên niên, lời lẽ vắt tắt, lắm chỗ hình như không có ý nghĩa gì cả, nhưng xét rõ đến tinh thần thì thật là bộ sách triết lý về việc chánh trị.
Hắn vừa mới mở miệng định gọi Bộc Dương Khải lại thì đã bị một bàn tay to bịt lấy miệng.
- Tỷ phu! A! Đặng Hải Tây.
- Phì! Học được cái tật xấu ở đâu? - Đặng Tắc hơi nóng mặt, trợn mắt nói.
Nếu như trước đây hắn đối với những tư tưởng kỳ diệu và nắm về thời cuộc của Tào Bằng có chút coi trọng thì cũng chỉ dừng lại ở đó.
Trên thực tế, Đặng Tắc cũng không để ý tới học vấn của Tào Bằng.
Một thiếu niên mười bốn tuổi cho dù thông minh tới mấy thì sao?
Học vấn không phải dựa vào thông minh mà có được. Nhưng vừa rồi nghe Tào Bằng nói, Đặng Tắc cảm nhận một sự thất bại sâu sắc. Cũng may đó là Bộc Dương Khải ngồi ở đấy. Chứ nếu vừa rồi là Đặng Tắc ngồi đó thì có lẽ bây giờ so với Bộc Dương Khải cũng không khá hơn là mấy. Cách xưng hô của Tào Bằng đối với y làm cho y không thích.
- Bộc Dương tiên sinh nói cần phải theo lễ pháp.
Đặng Tắc nở nụ cười chua xót, xoa đầu Tào Bằng rồi nói:
- A Phúc! Ngươi không cần phải nghe lời y, cứ theo chính mình là được rồi.
Người có thể nói được những lời như vậy thì làm sao cần phải để ý tới lời nói của những người khác? Nói một cách khác, những lời nói của Tào Bằng hôm nay đã thể hiện thực lực của mình. Ngươi không có thực lực, không biết lễ pháp thì tùy ý làm bậy. Người có thực lực thì thông đạt thế cuộc, phong lưu là chuyện bình thường...
Dù sao tốt xấu cũng đều là mở miệng. Người có thực học thì cho dù thế nào cũng tốt. Còn nếu không có bản lĩnh thì chẳng hay ho gì.
Ít nhất lúc này Đặng Tắc cũng không dám tự xưng là Đặng Hải Tây. Nếu từ miệng người khác nói ra thì còn tốt nhưng từ miệng Tào Bằng nói ra khiến cho Đặng Tắc cảm thấy nóng mặt.
- Bộc Dương tiên sinh làm sao vậy?
- Chậc... Không có việc gì. Có thể là bị đệ dọa. Ngày mai sẽ không sao đâu.
Người bị sợ đâu chỉ có Bộc Dương Khải, ngay cả Đặng Tắc cũng phải chịu sự đả kích.
- A Phúc! Muộn rồi, đi nghỉ sớm một chút đi.
- Được rồi! Đệ đi ngủ.
Tào Bằng có thể thấy được dường như Đặng Tắc không hứng trí lắm nên cũng không hỏi nữa.
Sau khi nói chuyện với Hạ Hầu Lan một chút, Tào Bằng liền quay vào phòng nghỉ tạm. Còn Đặng Tắc thì cũng không còn tâm trạng để đọc công văn, nên sau khi vào phòng liền tắt đèn đi nằm.
Tào Bằng nằm trên giường, bên tai vang lên tiếng như sấm của Vương Mãi.
Hắn ngủ không được. Cũng không phải vì tiếng ngáy của Vương Mãi mà vì cuộc nói chuyện vừa rồi với Bộc Dương Khải. Thấp thoáng hắn như nắm được một thứ gì đó nhưng bây giờ nhất thời nhớ lại thì không nắm rõ. "Vừa rồi mình nói như vậy không biết ẩn chứa ma lực thế nào?"
Tào Bằng cũng không phải là người ngu nên làm sao không nhận ra sự mất mát của Bộc Dương Khải và Đặng Tắc?
Chỉ có điều lúc đó hắn đang say sưa cho nên không nhớ rõ lắm.
Nhưng khi tỉnh táo lại, hắn biết Bộc Dương Khải và Đặng Tắc rõ ràng đã bị hắn đả kích.
"Tại sao lại bị đả kích?"
"Chẳng lẽ là những lời nói về luận của hắn?"
Tào Bằng cũng không ý thức được rằng những lời nói của mình đối với nhà Nho thời đại này sẽ có sự ảnh hưởng như thế nào. Cho tới này hắn cũng không cảm nhận được sự ưu việt của việc sống lại. Trên thực tế ngoại trừ võ nghệ ra, hắn chỉ còn có một cái đó là biết trước tất cả đối với thời đại.
Nhưng khi từng chuyện, từng chuyện diễn ra thì ưu thế của hắn cũng từ từ mất đi.
Điểm này Tào Bằng biết rất rõ.
Vì vậy mà hắn khẩn cấp muốn đưa Đặng Tắc và Tào Cấp lên trên đài, để tương lai, khi ưu thế của hắn hoàn toàn mất đi thì cũng đã có được một chút bình phong. Ngoại trừ việc đó ra thì hắn cần phải luyện võ nghệ. Chờ khi ưu thế không còn thì với chỗ võ nghệ đó hắn có thể tự bảo vệ mình.
Nhưng hiện tại thì dường như hắn đã tìm được một con đường khác.
Sách!
Rốt cuộc thì Tào Bằng cũng ý thức được ưu thế của mình.
Vào thời đại thông tin bùng nổ, sách vở trở nên hết sức bình thường. Có lẽ ta có thể thêm một chút về mặt này. Dù sao thì kiếp trước đã xem nhiều sách như vậy, mặc dù không nhớ được nhiều lắm nhưng vẫn có thể sử dụng. Chẳng hạn như Luận Ngữ! Đời sau chẳng phải đã nói Luận Ngữ trị thiên hạ đó sao? Bởi vậy có thể thấy được tầm quan trọng của Luận Ngữ... Nếu ta có thể sáng tạo ra một lưu phái thì có lẽ đối với đời sau còn có tác dụng lớn hơn nữa. Trong đầu hắn bắt đầu nhớ lại kiếp trước những gì đã đọc được ở Luận Ngữ tuyển chọn. Tuy nói rằng hắn nhớ không được đầy đủ nhưng cũng còn có một vài thứ đại khái. Mặc dù Luận Ngữ tuyển chọn không phải là tốt lắm nhưng ít nhất bên trong cũng có những dấu ấn rất mạnh của cá nhân. Vào cái thời đại tuyên dương cá tính rất mạnh có thể thấy được dầy đặc dấu vết của các cá nhân.
Tào Bằng càng nghĩ càng cảm thấy hưng phấn.
Khi hắn bật dậy thì tinh thần đã vô cùng phấn khởi.
Có điều mặc dù nói là như vậy nhưng làm thì không phải là chuyện dễ dàng. Chưa nói tới việc Tào Bằng có thể nhớ ra được toàn bộ nội dung của Luận Ngữ tuyển chọn hay không. Nhưng cho dù nhớ ra được thì dùng cách gì để diễn tả? Đối với Hán ngữ thời kỳ Đông Hán, hoàn toàn có sự khác biệt với ngôn ngữ của đời sau. Đặc biệt là văn phong những năm Kiến An lại có vẻ được chú trọng...
Mặc dù biết chữ nhưng không có nghĩa rằng Tào Bằng có thể tạo ra một thứ văn phong.
Cái đó cần có trình độ rất cao....
Tào Bằng hiểu rất rõ trình độ của mình. Nếu muốn viết ra để cho người khác tin phục, hơn nữa lại phải có phong cách của bản thân và cái khí khái Kiến An thì đối với hắn lúc này cũng không phải là chuyện dễ dàng. Đây hoàn toàn không phải là coi nhẹ bản thân mà là biết mình biết người...
Phong cách Kiến An?
Cái thứ này như thế nào?
Sau khi trải qua giai đoạn hưng phấn ngăn ngủi, Tào Bằng chợt tỉnh táo lại.
Ý tưởng tốt đẹp thì sự thật cũng tàn khốc. Thoáng nhìn thì hắn còn phải học rất nhiều. Ít nhất lúc này hắn còn chưa có cái năng lực khiến cho nhiều người tin vào văn phong của mình. Có lẽ cái ý tưởng này còn phải kéo dài thêm một chút.
Đáng giận là lần này ra đi lại không mang toàn bộ sách Luận mà Bàng Đức công cho hắn. Nếu biết sớm thế này thì hắn đã mang theo. Không biết khi tới Hải Tây sẽ ở đó bao nhiêu lâu nhưng cũng có thể nhân cơ hội này để nghiên cứu kỹ một phen.
Trong lúc Tào Bằng đang suy nghĩ ở trong phòng thì chợt nghe ngoài phòng vọng vào một tiếng quát.
- Ai?
Nghe âm thanh thì hình như là Chu Thương. Hắn và Hạ Hầu Lan thay phiên nhau, chứng tỏ lúc này đã thay đổi ca.
Tào Bằng vội mặc quần áo rồi phóng ra khỏi phòng. Chưa kịp ra khỏi phòng thì hắn đã nghe ở trong Cao Dương đình vang lên nhưng tiếng sắt thép va chạm, thi thoảng còn có tiếng chiến mã hí lên cùng với tiếng người ồn áo. Tào Bằng cả kinh vội vàng quơ lấy trường đao.
- A Phúc! Có chuyện gì vậy?
Vương Mãi và Đặng Phạm cũng bị đánh thức.
- Đầu Hổ ca! Ngũ ca! Bên ngoài dường như có chuyện gì đó. Các ngươi lập tức bảo vệ tỷ phu của ta và Bộc Dương tiên sinh.
- Được.
Vương Mãi và Đặng Phạm có thể nói là thiên lôi sai đâu đánh đó của Tào Bằng. Cả hai người nhảy xuống khỏi giường rồi quơ lấy binh khí mà phóng ra ngoài.
Vương Mãi thì chạy tới bảo vệ Đặng Tắc còn Đặng Phạm thì phụ trách bảo vệ Bộc Dương Khải.
Tào Bằng từ hành lang vọt ra, ngẩng đầu nhìn quanh thì thấy...
Chu Thương cùng với mấy tráng hán đang giằng co với nhau. Mấy tên hộ vệ cũng bị cuốn lấy nên nhất thời không thoát thân được.
Có bốn, năm người đàn ông đang dẫn ngựa từ chuồng, chạy ra ngoài Cao Dương đình.
"Trộm ngựa?"
Trong đầu Tào Bằng lập tức xuất hiện cái ý nghĩ đó. Không ngờ chính mình lại gặp phải chuyện này.
Tào Bằng không nói hai lời, vác đao chạy đi đồng thời quát to:
- Lũ trộm ngựa chạy đi đâu?
Một thanh niên ăn trộm ngựa quay đầu lại liền vội vàng hét lên:
- Ngăn thằng nhóc kia lại.
Hai tên trộm ngựa lập tức vọt lên, trong tay chúng một người thì cầm gậy còn một người thì cầm cái cào. Cả hai vọt tới ngăn cản Tào Bằng. chúng không nói tiếng nào, vung hung khí trong tay mà nện xuống đầu Tào Bằng.
Sự linh hoạt trong Thiên Cương trận lúc này được thể hiện đầy đủ.
Vốn Tào Bằng đang chạy nhanh, thấy đối phương tới ngăn cản cũng không hoảng loạn. Hắn dậm chân xoay người, đổi hướng liền trốn thoát khỏi công kích của đối phương. Cùng lúc đó, trường đao trong tay ra khỏi vỏ. Một tia sáng lóe lên liền chém cây gậy gỗ của đối phương ra thành hai đoạn. Đồng thời, hắn nhanh chóng lách sang một bên tránh khỏi cây cào. Tào Bằng cũng chẳng hề làm động tác dư thừa, thân thể quay một vòng đã xuất hiện sau đối phương. Khi chân hắn vừa chạm đất, liền dậm nhẹ chân một cái....
Cảm ơn ông trời đã không để cho hắn sinh ra vào thời Minh Thanh mà lại sống lại vào thời đại rung chuyển nhưng văn hóa tương đối khai sáng vào những năm cuối thời Đông Hán...
Trên thực tế, nếu dựa theo học thuật của Nho gia phát triển thì đại khái chia ra làm bốn giai đoạn.
Từ thời Hán cho tới nay, tuy Đổng Trọng Thư phế truất trăm nhà, độc tôn học thuật Nho gia. Đó là cả giai đoạn Nho học ở trong thời kỳ lần mò và hoàn thiện. Nho đã hình thành một đường lối nhưng còn chưa đạt tới đỉnh cao của học thuật. Các nhà nho đang hoàn thiện các loại kinh điển của Nho học. Vì thế mà các loại tư tưởng, các chú thích ở thời đại này có thể nói là rất đa dạng. Nếu ngươi nói có lý thì mọi người sẽ đồng ý. Điều này không hề quan hệ tới việc xuất thân hay danh tiếng. Cũng không phải trăm nhà cùng ganh đua như trong thời Xuân thu chiến quốc. Mà đây là trăm nhà học Nho gia cùng ganh đua.
Trải qua loạn Ngũ Hồ, Nam Bắc giằng co,Huyền học hưng thịnh, phật học cũng từ từ thịnh hành khiến cho trong văn hóa của Nho gia lại tăng thêm rất nhiều nội dung.
Các đại gia tộc sửa đổi huyền nho, phật nho... Trải qua mấy trăm năm cuối cùng thì học đã tạo ra cho Nho gia một hệ thống độc đáo. Rồi sau đó trải qua thời Đường đã làm cho Nho học phát triển rực rỡ... Nếu như nói nhà Nho thời Hán là những người thăm dò tìm ra cái mới thì Nho học thời Đường có thể nói là từ trên cao nhìn xuống, khiến cho mọi nước cùng hướng về. Khi đó Nho gia có thể nói là kiêu ngạo đối diện với thế giới.
Sau thời kỳ nhà Đường tới thời lưỡng Tống. Tâm tính của Nho gia thời Tống khác với thịnh Đường và nhà Hán. Bọn họ chìm trong sự mâu thuẫn và bàng hoàng. Cùng lúc với việc văn hóa phát triển cực cao thì thực lực quân sự lại bị dị tộc chèn ép. Sự đau khổ và tự hào đan xen với nhau từ từ hình thành một thời kỳ hưng thịnh.
Sau nhà Nguyên lại tới nhà Minh... Nhà nho thời Minh cũng đồng dạng sống trong sự mâu thuẫn. Sự hẹp hòi và tự phụ đã tạo ra cái gọi là thanh lưu. Còn về phần nhà Nho đã trên nên bị nô lệ, mất đi cái bản chất ban đầu của văn hóa Nho học.
Nếu Tào Bằng sống lại ở thời thịnh Đường thì lời nói của hắn sẽ bị người ta xem thường, thậm chí không có người thèm để ý. Nếu sống ở thời Tống thì sẽ bị người ta nhạo báng. Còn nếu sống lại vào thời Minh thì hắn sẽ là một người bất kính. Bởi vì lời nói của hắn vào một mức độ nhất định đã động chạm tới quyền lợi của sĩ phu. Ngay cả một người không biết chữ mà cũng bảo là có học vấn? Vậy thì những đại thi hào học đủ mọi thi thư đang ở đâu? Vì vậy phải nói là hắn may mắn. Hắn sinh vào những năm cuối thời Đông Hán. Mặc dù đây là thời kỳ rung chuyển nhưng học thuật lại đang vào thời kỳ khai sáng. Các loại tư tưởng đan xen, giao thao, dung hợp với nhau. Vì vậy mà cho dù Tào Bằng có nói cái gì thì chỉ cần có lý sẽ được thế nhân coi trọng.
Lúc này, Bộc Dương Khải không còn dùng thái độ coi thưởng để hỏi Tào Bằng. Thậm chí lão còn dùng cái giọng thỉnh giáo và ngang hành để giao lưu với Tào Bằng.
Có lẽ Tào Bằng cũng không biết rằng những lời nói của hắn hôm nay sẽ ảnh hưởng rất nhiều tới tương lai của mình.
Tào Bằng đang trong trạng thái hưởng thụ nên cũng không chú ý nhiều tới Bộc Dương Khải.
- Người nghiên cứu học vất thì nhất định phải chuẩn bị sẵn sàng. Mà chuẩn bị cái gì? Tiểu tử nghĩ đó là hưởng thụ sự cô quạnh.
Bộc Dương Khải lặng đi một chút, nghi hoặc nhìn Tào Bằng rồi chờ hắn giải thích.
Tào Bằng bằng nói:
- Quân tử có những việc nên hoặc không nên làm. Cái gì cần tới nghĩa thì phải làm là chuyện đương nhiên. Khổng Tử là một người cô quạnh. Mặc dù người có ba ngàn đệ tử nhưng cũng không phải là người giàu sang phú quý. Nhưng có thể nói những việc người làm cả đời thì có bao nhiêu người có thể hiểu? Đúng như ngài nói, trong ba nghìn đệ tử có lẽ chỉ có Nhan Hồi (1). Ngoại trừ người đó ra cho dù là Tằng Tử, Tử Cống cũng không ai hiểu được.
Nhưng ngài còn có thể giữ vững sự bần cùng, kiên trì với lý tưởng của mình. Vì vậy mà tiểu tử nghĩ rằng, học vấn của Khổng Phu tử là vì quốc gia, thiên hạ, vì thiên thu muôn đời sau. Không người nào có thể hiểu được sự cô quạnh của ngài. Khổng Tử ở thời Xuân Thu từng nói rằng "Tri ngã giả kỳ duy Xuân Thu hồ, tội ngã giả kỳ duy Xuân Thu hồ!" (Người biết ta cũng chỉ ở Kinh Xuân Thu (2), người trách tội ta cũng chỉ ở Kinh Xuân Thu). Năm trăm năm sau, Thái Công (sử ký Tư Mã Thiên) sáng tác sử ký xếp Khổng Tử và nhóm thế gia. Đổng Trọng Thư trục xuất trăm nhà độc tôn Nho gia... Tiên sinh. Khổng phu tử chịu đựng năm trăm năm cô quạnh mà được người ta chấp nhận. Người ta thường nói có được người tri kỷ thì có chết cũng không đáng chết. Nếu Khổng Tử có linh thiêng mà biết năm trăm năm sau có người hiểu mình, tôn sùng mình thì có coi là tri kỷ không? Có phải là bằng hữu không? Cho dù thì nào thì dưới cửu tuyền ngài cũng sẽ thoải mái.
Nét mặt Bộc Dương Khải thay đổi.
Nét mặt Đặng Tắc cũng thay đổi...
Tri kỷ?
Bộc Dương Khải đội nhiên ngửa mặt lên trời mà thở dài:
- Nếu Khổng Phu tử có biết tám trăm năm sau có người tri kỷ như ngươi thì lại càng thêm cao hứng.
Trong lòng lão có một thứ cảm xúc không thể nói thành lời. Bộc Dương Khải thường tự hào mình là nhà nho. Y nghiên cứu thơ Hàn, chăm đọc Chu lễ, tự nhận là một người hiểu rõ về Xuân Thu. Có thể nói y đọc Xuân Thu mấy chục năm mới hiểu được Xuân Thu và luận nhưng phải nghiên cứu nhiều như vậy mới có thể hiểu được nó.
Tri ngã giả kỳ duy Xuân Thu hồ, tội ngã giả kỳ duy Xuân Thu hồ!"
Đây là một sự cô quạnh tới mức độ nào? Khổng phu tử! Cho dù ngài có ba ngàn đệ tử thì có ai có thể thực sự hiểu người?
Ít nhất ta không làm được điều đó.
- Như vậy có người hiểu được mà không hờn....
- Đủ rồi!
Bộc Dương Khải đột nhiên cắt đứng lời nói của Tào Bằng rồi đứng dậy. Y hướng về phía Tào Bằng mà chắp tay vái chào, sau đó thở dài nói:
- Khổng Tử viết trong ba người đi cùng tất cả một người là thầy của ta. Cho đến hôm nay ta mới thực sự hiểu được điều đó.
- Tiên sinh...
- Hữu Học! Ta hơi mệt, muốn về nghỉ ngơi một chút. Nếu có chuyện gì thì để ngày mai nói sau.
Nói xong, Bộc Dương Khải xoay người rời đi. Dưới ánh đèn tù mù, cái lưng của y có chút hơi còng xuống. Bộc Dương Khải giống như già hơn rất nhiều. Bước chân mạnh mẽ trước đây vào lúc này hơi tập tễnh giống như một người mất hồn.
Y nghiên cứu cả đời cuối cùng phát hiện ra cơ bản mình không biết gì về Khổng Phu tử. Nếu như người nói những lời đó là Khổng Dung, Chung Do, Trịnh Huyền...hay cho dù là Đặng Tắc thì Bộc Dương Khải ít nhiều còn thấy dễ chịu một chút. Nhưng những lời đó lại xuất phát từ một đứa bé mới có mười bốn tuổi thì còn ai dám xưng là đã đọc thi, luận nữa?
Thật ra nếu ở thời hậu thế, dưới cách mạng văn hóa, tất cả con chó con mèo đều lên trên TV thì những lời của Tào Bằng cũng chẳng có gì đặc biệt. Nói không chừng khi hắn nói xong, còn bị người ta chửi bới là điên.
Sau khi tốt nghiệp, Tào Bằng có mua một quyển Luận Ngữ tuyển chọn. Lúc đầu hắn chỉ đọc cho biết nhưng sau mỗi lần đọc lại hiểu ra được một chút. Vì vậy mà hắn nhớ rất sâu đối với ba bản Luận Ngữ tuyển chọn.
Những năm cuối thời Đông Hán, sách không được phát triển lắm. Những bản khắc in ấn vẫn còn chưa xuất hiện chứ đừng nói là thuật in ấn... Rất nhiều người đọc sách dựa vào bản sao. Nhưng trong nhà đám sĩ phu phần lớn là một cuộn thẻ tre nặng trịch. Rất nhiều người đọc thi những lại không biết tới Luận. Học qua Xuân Thu nhưng lại không biết tìm đâu ra Thượng Thư.
Mà cho dù có người chuyên chú giải về thư tịch thì cũng chỉ lưu truyền trong một phạm vi nhỏ.
Chẳng hạn như tất cả đều biết rằng, Trịnh Huyền là một người chú giải về Hán thư, Thượng thư nhưng mấy người có thể làm được như vậy? Những quyển sách trong tay sĩ phu có thể nói là vô cùng lạc hậu, có từ rất lâu rồi. Mọi người đọc sách, hay nghiên cứu chỉ có thể nói là tiến hành một cách phiến diện. Còn như cái loại người có được kinh nghiệm từ thời đại tin tức như Tào Bằng thì cảm quan của hắn không mấy người ở thời đại này có thể hiểu được.
Khi Tào Bằng nói tới Luận có thể nói là nói có sách, mách có chứng, thậm chí còn trích dẫn một chút nội dung trong Xuân Thu, Thượng Thư.
Nhưng Bộc Dương Khải lại không có được những điều kiện đó.... Nếu nói y bị luận điểm của Tào Bằng đánh bại thì chẳng bằng nói y bị bại bởi một thế hệ tri thức, một người sông lại từ thời đại thông tin...
Vì vậy cái tâm trạng của Bộc Dương Khải, Tào Bằng không thể hiểu được.
(1): Nhan Hồi, họ Nhan, tên Hồi, tự là Tử Uyên, nên cũng gọi là Nhan Uyên, là con của ông Nhan Do, người nước Lỗ.
Nhan Hồi theo học với Đức Khổng Tử, và là học trò giỏi nhứt trong số các học trò của Đức Khổng Tử.
Nhan Hồi kém hơn Đức Khổng Tử 30 tuổi, thiên tư thông minh, nhanh nhẹn, hiếu học, chuộng Lễ, làm việc gì cũng không lầm lỗi đến hai lần, nói điều gì cũng không cẩu thả, khi giận người nầy không giận lây người kia, đứng đầu khoa đức hạnh trong cửa Khổng.
Đức Khổng Tử thường khen rằng: Ta có trò Hồi, cho nên các học trò ngày càng thân với Ta.
Nhan Hồi nhà nghèo, ở trong ngõ hẹp, giỏ cơm bầu nước, nếu là người khác thì không chịu được mà lo buồn, Nhan Hồi thì tự nhiên vui vẻ, học đạo. Đức Khổng Tử khen là người hiền và có nhân. Năm Nhan Hồi 29 tuổi thì tóc đã bạc trắng.
Lúc Đức Khổng Tử và các môn đệ bị nước Trần và nước Sái vây khổn ở ngoài đồng, không cho đi qua nước Sở, Khổng Tử hết lương thực. Những người đi theo đều ốm, dậy không nổi, nhưng Đức Khổng Tử vẫn dạy các môn đệ, rồi ngâm thơ, đánh đàn, ca hát, không tỏ ra suy yếu.
Tử Lộ (tên là Trọng Do) thấy thế có vẻ giận, đến hỏi:
- Người quân tử cũng có lúc cùng khốn ư?
Đức Khổng Tử đáp:
- Người quân tử trong lúc cùng khốn thì giữ vững, còn kẻ tiểu nhân trong lúc cùng khốn thì làm bậy.
Đức Khổng Tử nhìn mặt Tử Cống (tên là Đoan Mộc Tứ) thấy có vẻ giận, liền nói:
- Này anh Tứ, anh cho ta học nhiều mà biết phải không?
Tử Cống đáp:
- Dạ, đúng thế, không phải thế sao?
Đức Khổng Tử nói: - Không phải đâu! Ta lấy một điều để quán triệt tất cả. (Nhà triết học khác với người thường ở chỗ đó). Đức Khổng Tử biết các học trò còn có chỗ tức tối, bèn gọi Nhan Hồi đến hỏi:
- Này anh Hồi! Kinh Thi có nói: Chẳng phải con trủy, chẳng phải con hổ, ở ngoài đồng vắng. Đạo của ta phải hay sai? Tại sao ta gặp cảnh nầy?
Nhan Hồi đáp:
- Đạo của Phu Tử hết sức lớn lao, nên cả thiên hạ không ai dung nạp được. Nhưng Phu Tử cứ theo đó mà làm, người ta không dung nạp được thì có hại gì! Người ta không dung nạp, nhưng sau nầy người ta sẽ thấy Phu Tử là người quân tử. Đạo không được trau giồi, đó là cái điều mà ta lấy làm xấu hổ. Đạo đã được trau giồi mà vẫn không được dung nạp thì đó là điều xấu hổ của kẻ làm vua một nước. Người ta không dung nạp được Phu Tử thì có hại gì! Về sau người ta sẽ thấy Phu Tử là người quân tử.
Đức Khổng Tử hớn hở cười nói:
- Đúng lắm! Hỡi con người họ Nhan, nếu nhà ngươi lắm của cải thì ta sẽ làm người quản lý của cải cho nhà ngươi.
Sau đó, Đức Khổng Tử sai Tử Cống sang nước Sở yêu cầu vua Sở Chiêu Vương đem binh đến rước, Đức Khổng Tử mới thoát được cái nạn ấy.
(2): Kinh Xuân Thu là bộ sách của Khổng Tử làm ra. Ngài theo lối văn làm sử mà chép truyện nước Lỗ, kể từ Lỗ Ẩn Công đến Lỗ Ai Công. Trong sách ấy chép cả việc nhà Chu (Châu) và việc các nước chư Hầu.
Xem hình thể bề ngoài thì là một bộ sử biên niên, lời lẽ vắt tắt, lắm chỗ hình như không có ý nghĩa gì cả, nhưng xét rõ đến tinh thần thì thật là bộ sách triết lý về việc chánh trị.
Hắn vừa mới mở miệng định gọi Bộc Dương Khải lại thì đã bị một bàn tay to bịt lấy miệng.
- Tỷ phu! A! Đặng Hải Tây.
- Phì! Học được cái tật xấu ở đâu? - Đặng Tắc hơi nóng mặt, trợn mắt nói.
Nếu như trước đây hắn đối với những tư tưởng kỳ diệu và nắm về thời cuộc của Tào Bằng có chút coi trọng thì cũng chỉ dừng lại ở đó.
Trên thực tế, Đặng Tắc cũng không để ý tới học vấn của Tào Bằng.
Một thiếu niên mười bốn tuổi cho dù thông minh tới mấy thì sao?
Học vấn không phải dựa vào thông minh mà có được. Nhưng vừa rồi nghe Tào Bằng nói, Đặng Tắc cảm nhận một sự thất bại sâu sắc. Cũng may đó là Bộc Dương Khải ngồi ở đấy. Chứ nếu vừa rồi là Đặng Tắc ngồi đó thì có lẽ bây giờ so với Bộc Dương Khải cũng không khá hơn là mấy. Cách xưng hô của Tào Bằng đối với y làm cho y không thích.
- Bộc Dương tiên sinh nói cần phải theo lễ pháp.
Đặng Tắc nở nụ cười chua xót, xoa đầu Tào Bằng rồi nói:
- A Phúc! Ngươi không cần phải nghe lời y, cứ theo chính mình là được rồi.
Người có thể nói được những lời như vậy thì làm sao cần phải để ý tới lời nói của những người khác? Nói một cách khác, những lời nói của Tào Bằng hôm nay đã thể hiện thực lực của mình. Ngươi không có thực lực, không biết lễ pháp thì tùy ý làm bậy. Người có thực lực thì thông đạt thế cuộc, phong lưu là chuyện bình thường...
Dù sao tốt xấu cũng đều là mở miệng. Người có thực học thì cho dù thế nào cũng tốt. Còn nếu không có bản lĩnh thì chẳng hay ho gì.
Ít nhất lúc này Đặng Tắc cũng không dám tự xưng là Đặng Hải Tây. Nếu từ miệng người khác nói ra thì còn tốt nhưng từ miệng Tào Bằng nói ra khiến cho Đặng Tắc cảm thấy nóng mặt.
- Bộc Dương tiên sinh làm sao vậy?
- Chậc... Không có việc gì. Có thể là bị đệ dọa. Ngày mai sẽ không sao đâu.
Người bị sợ đâu chỉ có Bộc Dương Khải, ngay cả Đặng Tắc cũng phải chịu sự đả kích.
- A Phúc! Muộn rồi, đi nghỉ sớm một chút đi.
- Được rồi! Đệ đi ngủ.
Tào Bằng có thể thấy được dường như Đặng Tắc không hứng trí lắm nên cũng không hỏi nữa.
Sau khi nói chuyện với Hạ Hầu Lan một chút, Tào Bằng liền quay vào phòng nghỉ tạm. Còn Đặng Tắc thì cũng không còn tâm trạng để đọc công văn, nên sau khi vào phòng liền tắt đèn đi nằm.
Tào Bằng nằm trên giường, bên tai vang lên tiếng như sấm của Vương Mãi.
Hắn ngủ không được. Cũng không phải vì tiếng ngáy của Vương Mãi mà vì cuộc nói chuyện vừa rồi với Bộc Dương Khải. Thấp thoáng hắn như nắm được một thứ gì đó nhưng bây giờ nhất thời nhớ lại thì không nắm rõ. "Vừa rồi mình nói như vậy không biết ẩn chứa ma lực thế nào?"
Tào Bằng cũng không phải là người ngu nên làm sao không nhận ra sự mất mát của Bộc Dương Khải và Đặng Tắc?
Chỉ có điều lúc đó hắn đang say sưa cho nên không nhớ rõ lắm.
Nhưng khi tỉnh táo lại, hắn biết Bộc Dương Khải và Đặng Tắc rõ ràng đã bị hắn đả kích.
"Tại sao lại bị đả kích?"
"Chẳng lẽ là những lời nói về luận của hắn?"
Tào Bằng cũng không ý thức được rằng những lời nói của mình đối với nhà Nho thời đại này sẽ có sự ảnh hưởng như thế nào. Cho tới này hắn cũng không cảm nhận được sự ưu việt của việc sống lại. Trên thực tế ngoại trừ võ nghệ ra, hắn chỉ còn có một cái đó là biết trước tất cả đối với thời đại.
Nhưng khi từng chuyện, từng chuyện diễn ra thì ưu thế của hắn cũng từ từ mất đi.
Điểm này Tào Bằng biết rất rõ.
Vì vậy mà hắn khẩn cấp muốn đưa Đặng Tắc và Tào Cấp lên trên đài, để tương lai, khi ưu thế của hắn hoàn toàn mất đi thì cũng đã có được một chút bình phong. Ngoại trừ việc đó ra thì hắn cần phải luyện võ nghệ. Chờ khi ưu thế không còn thì với chỗ võ nghệ đó hắn có thể tự bảo vệ mình.
Nhưng hiện tại thì dường như hắn đã tìm được một con đường khác.
Sách!
Rốt cuộc thì Tào Bằng cũng ý thức được ưu thế của mình.
Vào thời đại thông tin bùng nổ, sách vở trở nên hết sức bình thường. Có lẽ ta có thể thêm một chút về mặt này. Dù sao thì kiếp trước đã xem nhiều sách như vậy, mặc dù không nhớ được nhiều lắm nhưng vẫn có thể sử dụng. Chẳng hạn như Luận Ngữ! Đời sau chẳng phải đã nói Luận Ngữ trị thiên hạ đó sao? Bởi vậy có thể thấy được tầm quan trọng của Luận Ngữ... Nếu ta có thể sáng tạo ra một lưu phái thì có lẽ đối với đời sau còn có tác dụng lớn hơn nữa. Trong đầu hắn bắt đầu nhớ lại kiếp trước những gì đã đọc được ở Luận Ngữ tuyển chọn. Tuy nói rằng hắn nhớ không được đầy đủ nhưng cũng còn có một vài thứ đại khái. Mặc dù Luận Ngữ tuyển chọn không phải là tốt lắm nhưng ít nhất bên trong cũng có những dấu ấn rất mạnh của cá nhân. Vào cái thời đại tuyên dương cá tính rất mạnh có thể thấy được dầy đặc dấu vết của các cá nhân.
Tào Bằng càng nghĩ càng cảm thấy hưng phấn.
Khi hắn bật dậy thì tinh thần đã vô cùng phấn khởi.
Có điều mặc dù nói là như vậy nhưng làm thì không phải là chuyện dễ dàng. Chưa nói tới việc Tào Bằng có thể nhớ ra được toàn bộ nội dung của Luận Ngữ tuyển chọn hay không. Nhưng cho dù nhớ ra được thì dùng cách gì để diễn tả? Đối với Hán ngữ thời kỳ Đông Hán, hoàn toàn có sự khác biệt với ngôn ngữ của đời sau. Đặc biệt là văn phong những năm Kiến An lại có vẻ được chú trọng...
Mặc dù biết chữ nhưng không có nghĩa rằng Tào Bằng có thể tạo ra một thứ văn phong.
Cái đó cần có trình độ rất cao....
Tào Bằng hiểu rất rõ trình độ của mình. Nếu muốn viết ra để cho người khác tin phục, hơn nữa lại phải có phong cách của bản thân và cái khí khái Kiến An thì đối với hắn lúc này cũng không phải là chuyện dễ dàng. Đây hoàn toàn không phải là coi nhẹ bản thân mà là biết mình biết người...
Phong cách Kiến An?
Cái thứ này như thế nào?
Sau khi trải qua giai đoạn hưng phấn ngăn ngủi, Tào Bằng chợt tỉnh táo lại.
Ý tưởng tốt đẹp thì sự thật cũng tàn khốc. Thoáng nhìn thì hắn còn phải học rất nhiều. Ít nhất lúc này hắn còn chưa có cái năng lực khiến cho nhiều người tin vào văn phong của mình. Có lẽ cái ý tưởng này còn phải kéo dài thêm một chút.
Đáng giận là lần này ra đi lại không mang toàn bộ sách Luận mà Bàng Đức công cho hắn. Nếu biết sớm thế này thì hắn đã mang theo. Không biết khi tới Hải Tây sẽ ở đó bao nhiêu lâu nhưng cũng có thể nhân cơ hội này để nghiên cứu kỹ một phen.
Trong lúc Tào Bằng đang suy nghĩ ở trong phòng thì chợt nghe ngoài phòng vọng vào một tiếng quát.
- Ai?
Nghe âm thanh thì hình như là Chu Thương. Hắn và Hạ Hầu Lan thay phiên nhau, chứng tỏ lúc này đã thay đổi ca.
Tào Bằng vội mặc quần áo rồi phóng ra khỏi phòng. Chưa kịp ra khỏi phòng thì hắn đã nghe ở trong Cao Dương đình vang lên nhưng tiếng sắt thép va chạm, thi thoảng còn có tiếng chiến mã hí lên cùng với tiếng người ồn áo. Tào Bằng cả kinh vội vàng quơ lấy trường đao.
- A Phúc! Có chuyện gì vậy?
Vương Mãi và Đặng Phạm cũng bị đánh thức.
- Đầu Hổ ca! Ngũ ca! Bên ngoài dường như có chuyện gì đó. Các ngươi lập tức bảo vệ tỷ phu của ta và Bộc Dương tiên sinh.
- Được.
Vương Mãi và Đặng Phạm có thể nói là thiên lôi sai đâu đánh đó của Tào Bằng. Cả hai người nhảy xuống khỏi giường rồi quơ lấy binh khí mà phóng ra ngoài.
Vương Mãi thì chạy tới bảo vệ Đặng Tắc còn Đặng Phạm thì phụ trách bảo vệ Bộc Dương Khải.
Tào Bằng từ hành lang vọt ra, ngẩng đầu nhìn quanh thì thấy...
Chu Thương cùng với mấy tráng hán đang giằng co với nhau. Mấy tên hộ vệ cũng bị cuốn lấy nên nhất thời không thoát thân được.
Có bốn, năm người đàn ông đang dẫn ngựa từ chuồng, chạy ra ngoài Cao Dương đình.
"Trộm ngựa?"
Trong đầu Tào Bằng lập tức xuất hiện cái ý nghĩ đó. Không ngờ chính mình lại gặp phải chuyện này.
Tào Bằng không nói hai lời, vác đao chạy đi đồng thời quát to:
- Lũ trộm ngựa chạy đi đâu?
Một thanh niên ăn trộm ngựa quay đầu lại liền vội vàng hét lên:
- Ngăn thằng nhóc kia lại.
Hai tên trộm ngựa lập tức vọt lên, trong tay chúng một người thì cầm gậy còn một người thì cầm cái cào. Cả hai vọt tới ngăn cản Tào Bằng. chúng không nói tiếng nào, vung hung khí trong tay mà nện xuống đầu Tào Bằng.
Sự linh hoạt trong Thiên Cương trận lúc này được thể hiện đầy đủ.
Vốn Tào Bằng đang chạy nhanh, thấy đối phương tới ngăn cản cũng không hoảng loạn. Hắn dậm chân xoay người, đổi hướng liền trốn thoát khỏi công kích của đối phương. Cùng lúc đó, trường đao trong tay ra khỏi vỏ. Một tia sáng lóe lên liền chém cây gậy gỗ của đối phương ra thành hai đoạn. Đồng thời, hắn nhanh chóng lách sang một bên tránh khỏi cây cào. Tào Bằng cũng chẳng hề làm động tác dư thừa, thân thể quay một vòng đã xuất hiện sau đối phương. Khi chân hắn vừa chạm đất, liền dậm nhẹ chân một cái....
Danh sách chương