Thiên Hạ

Chương 698 - Cầp Cầu Ngoại Viện

gacsach.com

Thào nguyên mênh mông vô bờ bến đã đã khoác lên mình chiếc áo màu xanh, thào nguyên bạt ngàn phàng phất như một người khổng lồ dang rộng đôi tay ra bốn phương tám hướng, bầu trời xanh thẳm không có lấy một đám mây, tựa như một cái vòm bằng thủy tinh thuần khiết, che phủ lấy toàn bộ bầu trời.

Sáng sớm, một đội kỵ binh đang phi ngựa trên thào nguyên bát ngát, bọn họ đã nhìn thấy được ngọn núi Otaontenger* đen nhánh, cũng thấy được sông Orkhon* với làn nước xanh biếc lấp lánh, như một đai ngọc, nơi này là thung lũng thào nguyên bên bờ sông Orkhon.

* Otaontenger là ngọn núi cao nhất của dãy núi Khangai. Dãy núi nằm ở miền trung Mông Cổ, cách khoàng 400 km về phía tây của thủ đô Ulaanbaatar. Dãy núi là nguồn cung cấp nước cho các sông Orkhon, Selenge, Ider, Zavkhan và các hồ Oroa và Boontsaaaan. Ở phía tây, dãy núi Khangai dẩn chuyển tiếp vào Vùng lõm Hồ Lớn.

* Orkhon là một sông tại Mông Cố. Dòng sông Khởi nguồn từ dãy núi Khangai thuộc tinh Arkhangai và cHãy về phía bắc với tổng chiều dài 1,124 km (0,698 mi) trước khi họp dòng vào sông Selenga, dòng sông mà sau đó cHãy về phía bắc đến Nga rồi đổ vào Hồ Baikal. Orkhon có chiều dài lớn hơn Selenge, và là sông dài nhất tại Mông cổ. Các phụ lưu chính của sông Orkhon là sông Tuul và sông Tamir. Có hai bộ di chi cổ dọc theo thung lũng sông: Khar Balaas, kinh đô cổ của vương quốc Hồi Hột và Karakorum (Cáp Lạp Hòa Lâm), kinh đô cổ của Đế quốc Mông cổ. Pyotr Kuzmich Kozlov đã khai quật được một số ngôi mộ hoàng gia Hung Nô tại khu vực thung lũng sông. Rất gần Orkhon là sông Ulaan Tsutaalan với một thác nước đặc tung, mười mét chiều rộng và hai mươi mét chiều cao. Thác nước là một địa điểm du lịch được biết đến. UNGSCO đã đưa Thung lũng Orkhon vào trong danh gách Di sàn thế giới.

Mấy sông lớn như sông Orkhon, sông Tiên Nga, sông Độc Lạc ở vùng này hình thành một mạng lưới sông thật lớn và chằng chịt, núi Otaontenger ngăn trờ dòng khi lạnh phương bắc thổi tới, khiến cho ing này có khí hậu hơi cao so với nơi khác, nguồn nước dồi dào, khí hậu ấm áp, khiến vùng này cũng thành mành đất màu mỡ nhất của toàn bộ thào nguyên Mạc Bắc, khắp nơi là những đàn dê bò thật đông, thinh thoàng có từng đàn từng đàn ngựa chạy ngang qua thào nguyên.

Các kỵ binh tăng tốc độ lên, bọn họ xông lên một đồi cô thấp và thoải, chi thấy một tòa thành trì hiện ra trước mắt bọn họ. Bọn họ Rốt cục cũng tới rồi, thành Ordu-Baliq nằm bên bờ sông Orkhon, cũng là đô thành của Hồi Hột.

Các kỵ binh hung phấn mà hô to một tiếng, cưỡi ngựa nhắm hướng thành Ordu-Baliq phóng đi.

Lúc này là thượng tuần tháng ba năm Khánh Bình thứ ba của Đại Đường, gió xuân thổi xanh cả thào nguyên rộng lớn, nhung nguy cơ của Hà Bắc khiến Sử Tư Minh không thể không cầu cứu Hồi Hột.

Sử Tư Minh quyết định cầu viện Hồi Hột là vào thượng tuần tháng hai. Mùa xuân đã tới, Sử Tư Minh Rốt cục cũng nhận được tin tức xác thực, căn cứ địa của Khiết Đan và người Hề trong mùa đông đã bị quân Đường càn quét sạch, mà mười lăm vạn đại quân vẫn đang đóng quân ở Hà Nam cũng thừa dịp Hoàng Hà đóng băng tiến vào chiếm giữ Tưoĩig Châu, quan trọng hơn nữa là Sử Tư Minh biết được Điền Thừa Tự đã đầu hàng Đường triều.

Các tin tức bất lợi khiến cho Sử Tư Minh ý thức được, nguy cơ của bọn họ sắp đến rồi, hắn cũng biết trong tay mình nắm nhiều tội ác, người khác có thể đầu hàng Đường, còn hắn Sử Tư Minh thì không thể hàng Đường được, hắn đã không còn đường có thể đi nữa rồi.

Để cứu văn thế cục nguy hiểm cuối cùng này, Sử Tư Minh quyết định, không tiếc bất kỳ giá nào, cầu viện Hồi Hột.

Đội kỵ binh này chính là hộ vệ con trai của Sử Tư Minh là Sử Triều Nghĩa sang Hồi Hột cầu viện. Sử Triều Nghĩa từ Cư Dung quan ở u Châu ra Hà Bắc, mỗi người kèm ba con ngựa, chạy suốt hai mươi ngày đường, cuối cùng đi đến đô thành Ordu-Baliq của Hồi Hột.

Một hàng năm mươi người chậm rãi đi tới trước cổng lớn thành trì, bọn họ bị binh lính thủ thành ngăn càn đường đi.

“Chúng tôi là đặc sứ từ Hà Bắc tới, yêu cầu gặp Cát Lặc Khả Hăn!” “Hãy đợi ở bên ngoài!”

Một gã bách phu trưởng dữ dằn la lớn, lúc này mới sai người tiếp nhận văn điệp của bọn họ, đi tìm cấp trên bẩm báo.

Đoàn người bọn họ mãi ở bên ngoài thành đợi cho đến một canh giờ, vẫn không có ai đê ý tới bọn họ, Sử Triều Nghĩa sa sầm sắc mật, không nói một lời, nhưng quan quân tùy tụng tâm phúc của hắn Lạc Duyệt lại có vè mặt giận dữ, nói với Sử Triều Nghĩa: “Thiếu soái, người Hồi Hột đã quá vô lễ rồi, làm sao lại có thế đế cho người ta ở ngoài thành chờ đến một canh giờ như thế chứ.”

Sử Triều Nghĩa khoát tay: “Vô lễ cũng phái chờ!”

Hắn lại thờ dài: “Ta đoán chừng đấy có thể là người Hồi Hột cố ý bò mặc chúng ta ở bên ngoài, chèn ép chúng ta, hẳn là nhanh rồi, đợi thêm một chút đi!”

Lúc này, tò bên trong thành đi ra một đám binh lính, người cầm đầu là một quan văn Hồi Hột, hắn chậm rãi đi lên trước chắp tay hòi: “Vị nào là Sử công tử vậy?”

Hắn nói bằng tiếng Đột Quyết, không hề quan tâm đến cảm nhận của Sử Triều Nghĩa, cũng may Sử Tư Minh chính là người Đột Quyết, Sử Triều Nghĩa cũng có thể nghe hiêu được, hắn vội vàng khom người nói: “Chính là ta!”

Quan văn quan sát hắn một chút, gật gật đầu: “Ta là thứ tướng quốc Cậu Lục Mạc Đạt Can của Hồi Hột, ngươi hãy theo ta vào thành đi! Tùy tùng chi có thể mang theo một người thôi.”

Sử Triều Nghĩa nghe đối phương nội rằng không ngờ lại là thứ tướng quốc, trong lòng mừng rỡ, hắn cũng không thèm để ý bao nhiêu người được vào thành, liền quay đầu lại nói với thủ hạ: “Các ngươi ở bên ngoài chờ, Lạc tướng quân theo ta vào thành.”

Hắn đi theo Câu Lục Mạc Đạt Can đi thẳng vào thành, khi cưỡi ngựa đến trước hoàng cung, Câu Lục Mạc Đạt Can chi chi một mặt lá cờ đầu sói lớn, cũng không nói gì. Trước lúc ra đi Sử Triều Nghĩa nghe phụ thân nói qua một số quy cù của Hồi Hột, những cái khác đều không sao cả, duy chi có một điều là khi gặp Khả Hăn, trước hết nhất định phải bái là cờ Khả hẳn hình đầu sói, nếu không sẽ bị coi là cực kỳ vô lễ, Khả hẳn sẽ không gặp.

Sử Triều Nghĩa lúc này xoay người xuống ngựa, quỳ gối dưới lá cờ Khả hẳn hình đầu sói dập đầu lạy ba cái, Câu Lục Mạc Đạt Can thấy hắn thành tâm, sắc mặt lúc này mới mới chuyển biến tốt một chút, ha hả cười dùng tiếng Hán nói với hắn: “Ngươi theo ta vào cung đi! Khả hẳn chúng tôi đang chờ ngươi.”

Hồi Hột sau khi trải qua mấy năm nghỉ ngơi lấy lại sức, lại dần dần khôi phục nguyên khí, rất nhiều thiếu niên Hồi Hột trưỡng thành và đã trờ thành chiến sĩ rồi, khiến cho binh lực Hồi Hột gia tâng. Quân Hồi Hột đã có đến mười vạn người rồi, cộng thêm Cát Lặc Khả hẳn mấy năm nay nằm gai nếm mật, mài sẵn binh khí móm sẵn ngựa sẵn sàng ra trận, nuôi đến mấy trăm vạn dê bò, chiến mã mấy chục vạn con, nguyên khí của bọn họ đã hoàn toàn khôi phục.

Do Đường triều thực thi mậu dịch với Hồi Hột, nhất là nghiêm cấm vận chuyển vật tư, những khí bằng sắt... Đến Mạc Bắc, một khi tra xét ra bèn bị trọng tội tịch biên nhà cửa, chém đầu. Ớ Trường An đã từng ngay giữa đường giết qua ba hộ vì muốn được lãi nặng mà mạo hiểm buôn bán sất thép cho lái thương Hồi Hột, đã làm khiếp sợ lái thương Đại Đường, không còn ai dám mạo hiểm nữa.

Cho dù từ Đường triều mua không được sắt thép, nhung bắt đầu từ năm trước Hồi

Hột vẫn có thể mua được một số sắt thép từ Khazars ở phương Tây, dùng để chế tạo ra binh khí, võ trang cho kỵ sĩ.

Lúc này các bộ lạc của Hồi Hột đã có mười vạn binh sĩ khoác áo giáp, binh hùng tướng mạnh, Cát Lặc Khả hẳn liền có lòng muốn báo thù rửa hận, bọn họ tựa như lang sói trên thào nguyên, luôn luôn chực chờ cơ hội báo thù.

Trên thực tế Cát Lặc Khả hẳn vẫn đang chăm chú theo dõi thế cục Hà Bắc, hắn thông qua Bộc cốt bộ của Hồi Hột mà đưa một lượng lớn dê bò cho Sử Tư Minh, dần dần bèn khống chế được quân đội của Sử Tư Minh. Nếu không chi bằng một Bộc cốt bộ thì không thể nuôi sống nổi mười mấy vạn đại quân của Sử Tư Minh.

Hiện tại thế cục Hà Bắc bắt đầu hiện rõ ra, Hồi Hột cũng phái bắt đầu mùa thu hoạch rồi, đúng vào lúc này, con trai của Sử Tư Minh là Sử Triều Nghĩa đến cầu viện.

Cát Lặc Khả hẳn Ma Duyên Xuyết nửa nằm ở trên chiếc ghế cao cao bằng vàng, hai cô gái khêu gợi tựa như con rắn quấn quít hai bên hắn, đem từng ly từng ly rưọoi bồ đào mỹ tửu kề môi cho hắn uống vào miệng.

Ma Duyên Xuyết với sắc mặt tái nhợt đang híp mắt nghĩ ngợi tới việc gì đó, động binh với Đại Đường đã ý kiến thống nhất của tất cà trên dưới Hồi Hột. Những năm trước lúc Lý Khánh An còn ở An Tây đã giết bọn họ rất thảm hại, cơ hồ mỗi hộ cũng đau khố vì đều có người thân bị giết, không càn quét Đại Đường, khó có thé trị liệu vết thương lòng của bọn họ được.

Lý trí nói cho Ma Duyên Xuyết biết, nên tấn công nơi binh lực rỗng không là Bắc Đình trước, nhung trong lòng hắn lại khó bó qua nơi Trung Nguyên giàu có. Một cái là chiến lược lý trí, một cái là lòng tham và dục vọng của hắn, cũng như hai cô gái bên người đây của hắn vậy, một trái một phải, làm cho hắn khó có thê lựa chọn cho được, hắn nên lựa chọn ai? Lý trí hay là lòng tham, hắn khó mà hạ quyết tâm được.

“Khá Hăn!” Một gã thị vệ đi vào thấp giọng bẩm báo: “Sử Triều Nghĩa tới rồi, đang ở bên ngoài cung điện chờ đợi.”

“Hắn đã bái lá cờ Khả hẳn hình đầu sói của ta cHứa?” Ma Duyên Xuyết chậm rãi hôi.

“Hắn đã bái rồi, vô cùng cung kính.” “Tốt! Hãy để cho hắn vào đây gặp ta.”

Các kỵ binh tăng tốc độ lên, bọn họ xông lên một đồi cỏ thấp và thoải, chi thấy một tòa thành trì hiện ra trước mắt bọn họ. Bọn họ Rốt cục cũng tới rồi, thành Ordu-Baliq nằm bên bờ sông Orkhon. Cũng là đô thành của Hồi Hột.

Các kỵ binh hưng phấn mà hô to một tiếng, cười ngựa nhắm hướng thành Ordu-Baliq phóng đi.

Lúc này là thượng tuần tháng ba năm Khánh Bình thử ba của Đại Đường, gió xuân thổi xanh cả thảo nguyên rộng lớn. Nhưng nguy cơ của Hà Bắc khiến Sử Tư Minh không thể không cầu cứu Hồi Hột.

Sứ Tư Minh quyết định cầu viện Hồi Hột là vào thượng tuần tháng hai. Mùa xuân đã tới, Sử Tư Minh Rốt cục cũng nhận được tin tức xác thực, căn cử địa của Khiết Đan và người Hề trong mùa đông đã bị quân Đường càn quét sạch, mà mười lãm vạn đại quân vẫn đang đóng quân ở Hà Nam cũng thừa dịp Hoàng Hà đóng băng tiến vào chiếm giữ Tương Châu, quan trọng hơn nữa là Sử Tư Minh biết được Điền Thừa Tự đã đầu hàng Đường triều.

Các tin tức bất lợi khiến cho Sứ Tư Minh ý thức được, mỹ cơ của bọn họ sắp đến rồi. Hắn cũng biết trong tay mình nắm nhiều tội ác, người khác có thể đầu hàng Đường, còn hắn Sử Tư Minh thì không thể hàng Đường được, hắn đã không còn đường có thể đi nữa rồi. ^

Để cửu vàn thế cục mỹ hiểm cuối cùng này, Sứ Tư Minh quyết định, không tiếc bất kỳ giá nào, cầu viện Hồi Hột.

Đội kỵ binh này chính là hộ vệ con trai của Sứ Tư Minh là Sứ Triều Nghĩa sang Hồi Hột cầu viện. Sử Triều Nghĩa từ Cư Dung quan ở ư Châu ra Hà Bắc, mỗi người kèm ba con ngựa, chạy suốt hai mươi ngày đường, cuối cùng đi đến đô thành Ordu-Baliq của Hồi Hột.

Các kỵ binh tăng tốc độ lên, bọn họ xông lên một đồi cỏ thấp và thoải, chi thấy một tòa thành trì hiện ra trước mắt bọn họ. Bọn họ Rốt cục cũng tới rồi, thành Ordu-Baliq nằm bên bờ sông Orkhon. Cũng là đô thành của Hồi Hột.

Các kỵ binh hưng phấn mà hô to một tiếng, cười ngựa nhắm hướng thành Ordu-Baliq phóng đi.

Lúc này là thượng tuần tháng ba năm Khánh Bình thử ba của Đại Đường, gió xuân thổi xanh cả thảo nguyên rộng lớn. Nhưng nguy cơ của Hà Bắc khiến Sử Tư Minh không thể không cầu cứu Hồi Hột.

Sứ Tư Minh quyết định cầu viện Hồi Hột là vào thượng tuần tháng hai. Mùa xuân đã tới, Sử Tư Minh Rốt cục cũng nhận được tin tức xác thực, căn cử địa của Khiết Đan và người Hề trong mùa đông đã bị quân Đường càn quét sạch, mà mười lãm vạn đại quân vẫn đang đóng quân ở Hà Nam cũng thừa dịp Hoàng Hà đóng băng tiến vào chiếm giữ Tương Châu, quan trọng hơn nữa là Sử Tư Minh biết được Điền Thừa Tự đã đầu hàng Đường triều.

Các tin tức bất lợi khiến cho Sứ Tư Minh ý thức được, mỹ cơ của bọn họ sắp đến rồi. Hắn cũng biết trong tay mình nắm nhiều tội ác, người khác có thể đầu hàng Đường, còn hắn Sử Tư Minh thì không thể hàng Đường được, hắn đã không còn đường có thể đi nữa rồi. ^

Để cửu vàn thế cục mỹ hiểm cuối cùng này, Sứ Tư Minh quyết định, không tiếc bất kỳ giá nào, cầu viện Hồi Hột.

Đội kỵ binh này chính là hộ vệ con trai của Sứ Tư Minh là Sứ Triều Nghĩa sang Hồi Hột cầu viện. Sử Triều Nghĩa từ Cư Dung quan ở ư Châu ra Hà Bắc, mỗi người kèm ba con ngựa, chạy suốt hai mươi ngày đường, cuối cùng đi đến đô thành Ordu-Baliq của Hồi Hột.

“Chúng tôi là đặc sử từ Hà Bắc tới, yêu cầu gặp Cát Lặc Khả Hăn!” “Hãy đợi ở bên ngoài!”

Một sã bách phu trường dữ dằn la lớn, lúc này mới sai người tiếp nhận văn điệp của bọn họ, đi tìm cấp trên bẩm báo.

Đoàn người bọn họ mãi ở bên ngoài thành đợi cho đến một canh giờ, vẫn không có ai để ỷ tới bọn họ, Sử Triều Nghĩa sa sầm sắc mặt. Không nói một lời, nhung quan quân tùy tùng tâm phúc của hắn Lạc Duyệt lại có vé mặt giận dữ. Nói với Sử Triều Nghĩa: “Thiếu soái, người Hồi Hột đà quá vô lễ rồi, làm sao lại có thể để cho người ta ở ngoài thành chờ đến một canh giờ như thế chứ.”

Sứ Triều Nghĩa khoát tay: “Vô lễ cũng phải chờ!”

Hắn lại thờ dài: “Ta đoán chừng đấy có thể là người Hồi Hột cố ý bõ mặc chúng ta ở bên ngoài, chèn ép chúng ta. Hẳn là nhanh rồi, đợi thêm một chút đi!”

Lúc này, từ bên trong thành đi ra một đám binh lính, người cầm đầu là một quan văn Hồi Hột, hắn chậm rãi đi lên trước chắp tay hỏi: “Vị nào là Sử công tử vậy?”

Hắn nói bằng tiếng Đột Quyết, không hề quan tâm đến cảm nhận của Sứ Triều Nghĩa. Cũng may Sử Tư Minh chính là người Đột Quyết, Sử Triều Nghĩa cũng có thế nghe hiểu được, hắn vội vàng khom người nói: “Chính là ta!”

Quan văn quan sát hắn một chút, gật gật đầu: “Ta là thử tướng quốc Câu Lục Mạc Đạt Can của Hồi Hột, ngươi hãy theo ta vào thành đi! Tùy tùng chi có thể mang theo một người thôi.”

Sứ Triều Nghĩa nghe đối phương nói rằng không ngờ lại là thử tướng quốc, trong lòng mừng rờ, hắn cũng không thèm để ý bao nhiêu người được vào thành, liền quay đầu lại nói với thù hạ: “Các ngươi ở bên ngoài chờ, Lạc tướng quân theo ta vào thành.”

Hắn đi theo Câu Lục Mạc Đạt Can đi thẳng vào thành, khi cười ngựa đến trước hoàng cung, Câu Lục Mạc Đạt Can chi chi một mật lá cờ đầu sói lớn, cũng không nói gì. Trước lúc ra đi Sử Triều Nghĩa nghe phụ thân nói qua một số quy củ của Hồi Hột, nhưng cái khác đều không sao cả, duy chi có một điều là khi gặp Khả Hàn, trước hết nhất định phải bái là cờ Khả hẳn hình đầu sói, nếu không sẽ bị coi là cực kỳ vô lễ. Khả hẳn sẽ không gặp.

Sứ Triều Nghĩa lúc này xoay người xuống ngựa, quỳ gối dưới lá cờ Khả hẳn hình đầu sói dập đầu lạy ba cái, Câu Lục Mạc Đạt Can thấy hắn thành tâm, sắc mật lúc này mới mới chuyên biến tốt một chút, ha hả cười dùng tiếng Hán nói với hắn: “Ngươi theo ta vào cung đi! Khả hẳn chúng tôi đang chờ ngươi.”

Hồi Hột sau khi trải qua mấy năm nghỉ ngơi lấy lại sức, lại dần dần khôi phục nguyên khí, rất nhiều thiếu niên Hồi Hột trường thành và đã trờ thành chiến sĩ rồi. Khiến cho binh lực Hồi Hột gia tăng. Quân Hồi Hột đã có đến mười vạn người rồi, cộng thêm Cát Lặc Khả hẳn mấy năm nay nằm gai nếm mật, mài sẵn binh khí móm sẵn ngựa sẵn sàng ra trận, nuôi đến mấy trăm vạn dê bò, chiến mã mấy chục vạn con, nguyên khí của bọn họ đã hoàn toàn khôi phục.

Do Đường triều thực thi mậu dịch với Hồi Hột, nhất là nghiêm cấm vận chuyển vật tư. Nhưng vù khí bằng sắt... Đến Mạc Bắc. Một khi tra xét ra bèn bị trọng tội tịch biên nhà cửa. Chém đầu. Ở Trường An đã từng ngay giữa đường siết qua ba hộ vì muốn được lài nặng mà mạo hiểm buôn bán sắt thép cho lái thương Hồi Hột, đã làm khiếp sợ lái thương Đại Đường, không còn ai dám mạo hiểm nữa.

Cho dù từ Đường triều mua không được sắt thép, nhưng bắt đầu từ năm trước Hồi Hột vẫn có thể mua được một số sắt thép từ Khazars ở phương Tây, dùng để chế tạo ra binh khí. Võ trang cho kỵ sĩ.

Lúc này các bộ lạc của Hồi Hột đã có mười vạn binh sĩ khoác áo giáp, binh hùng tướng mạnh, Cát Lặc Khả hẳn liền có lòng muốn báo thù rửa hận, bọn họ tựa như lang sói trên thảo nguyên, luôn luôn chực chờ cơ hội báo thù.

Trên thực tế Cát Lặc Khả hẳn vẫn đang chăm chú theo dõi thế cục Hà Bắc, hắn thông qua Bộc cốt bộ của Hồi Hột mà đưa một lượng lớn dê bò cho Sử Tư Minh, dần dần bèn khống chế được quân đội của Sử Tư Minh. Nếu không chi bằng một Bộc cốt bộ thì khôngthể nuôi sống nổi mười mấy vạn đại quân của Sử Tư Minh.

Hiện tại thế cục Hà Bắc bắt đầu hiện rõ ra, Hồi Hột cũng phải bắt đầu mùa thu hoạch rồi. Đúng vào lúc này, con trai của Sử Tư Minh là Sứ Triều Nghĩa đến cầu viện.

Cát Lặc Khả hẳn Ma Duyên Xuyết nữa nằm ở trên chiếc ghế cao cao bằng vàng, hai cô gái khêu gợi tựa như con rắn quấn quít hai bên hắn, đem từng ly từng ly rượu bồ đào mỹ tửu kề môi cho hắn uống vào miệng.

Ma Duyên Xuyết với sắc mặt tái nhợt đang híp mắt nghĩ ngợi tới việc sì đó, động binh với Đại Đường đà ý kiến thống nhất của tất cả trên dưới Hồi Hột. Nhưng năm trước lúc Lý Khánh An còn ở An Tây đà siết bọn họ rất thảm hại. Cơ hồ mỗi hộ cũng đau khố vì đều có người thân bị siết, không càn quét Đại Đường, khó có thé trị liệu vết thương lòng của bọn họ được.

Lý trí nói cho Ma Duyên Xuyết biết, nên tấn công nơi binh lực rỗng không là Bắc Đình trước, nhưng trong lòng hắn lại khó bò qua nơi Trung Nguyên siàu có. Một cái là chiến lược lý trí, một cái là lòng tham và dục vọng của hắn, cũng như hai cô sái bên người đây của hắn vậy, một trái một phải, làm cho hắn khó có thé lựa chọn cho được, hắn nên lựa chọn ai? Lý trí hay là lòng tham, hắn khó mà hạ quyết tâm được.

“Khả Hăn!” Một sã thị vệ đi vào thấp giọng bầm báo: “Sứ Triều Nghĩa tới rồi, đang ở bên ngoài cung điện chờ đợi.”

“Hắn đà bái lá cờ Khả hẳn hình đầu sói của ta cHứa?” Ma Duyên Xuyết chậm rãi hỏi.

"Hắn đà bái rồi, vô cùng cung kính." "Tốt! Hãy để cho hắn vào đây gặp ta

Rất nhanh, vài tên thị vệ dẫn Sứ Triều Nghĩa vào cung điện, đại tướng Lạc Duyệt thì không được phép vào trong cung, phải ở lại bên ngoài cung.

Sứ Triều Nghĩa đi vào đại điện được trải thảm, ở trước bậc thang quỳ xuống, dập đầu một cái với Cát Lặc Khả Hãn. Nói một cách thấp hèn: “Thần tử của người Sử Triều Nghĩa khấu kiến thiên Khả Hăn!”

Thần tử?"

Ma Duyên Xuyết bỗng nhiên ngửa mặt lên trời cười ha hả, cười đến vui vẻ như vậy, cao cao tại thượng như vậy, trong lòng Sứ Triều Nghĩa vô cùng đau khổ, phụ thân bắt hắn phải trung thành như chó, phải hèn mọn như đất cát. Như vậy mới có thé đả động được lòng thương hại của Khả hẳn Hồi Hột, nhung khi hắn biểu hiện sự hèn mọn như chó, thì hắn cảm thấy trái tim mình đang ri máu.

Ma Duyên Xuyết rất hài lòng với thái độ của hắn, hắn cho rằng Sứ Tư Minh coi như thức thời, biết mình mới là chù nhân của hắn. Chính mình đã nuôi sống hắn, hắn khoát tay: “Thiên Khả hẳn là cách xưng hô của Đại Đường hoàng đế. Ta hiện tại cHứa diệt Đại Đường, còn cHứa dám đảm đương nổi cách xung hô này, ngươi đứng lên đi!”

"Vâng ạ!^

Sứ Triều Nghĩa đứng lên, cung kính mà xuôi tay đứng thẳng, Ma Duyên Xuyết liếc mắt nhìn hắn. Bèn hòi nói: “Các ngươi bây giờ còn có bao nhiêu quân đội, không tính Bộc Cốt bộ, chi tính quân đội của các ngươi thôi.”

“Hồi bẩm Đại Hăn, chúng tôi có mười hai vạn người.” “Ừm! Thế trong quân đội có bao nhiêu người Hán?”

“Người Hán rất ít. Không đến một vạn, chủ yếu là người Đột Quyết mà từ trước dựa vào Đại Đường, còn có một số người Khiết Đan và người Cao Ly.”

Ngừng một chút. Sứ Triều Nghĩa lại bổ sung thêm nói: “Chúng tôi còn đang khống chế hai mươi mấy vạn người Hán.”

Ma Duyên Xuyết lúc này không có hửng thú với người Hán, trong lòng hắn đang toan tính đến quân đội của Sử Tư Minh. Bộc cốt bộ có năm vạn người. Còn Sử Tư Minh có mười hai vạn người, bõ đi một số ngoại tộc, thì là mười vạn người, cộng thêm mười vạn thiết kỵ của mình, dưới tay hắn đà có hai mươi lãm vạn đại quân, như vậy, hai mươi lăm vạn quân thiết kỵ thảo nguyên với thành phần chính là người Đột Quyết và người Hồi Hột. Đủ đế càn quét Đại Đường.

Trong lòng hắn đà có chữ ý rồi, nhưng trên mặt lại không hề lộ ra dấu vết sì cà, biếng nhác hỏi: “Thế phụ thân ngươi cho ngươi đến tìm ta. Có chuyện gì sao? Có phải là muốn ta cung cấp lương thảo viện trợ?”

“Không! Không phải!”

Sứ Triều Nghĩa vội la lên: “Ty chức đến đây không phải là vì lương thảo, mười lăm vạn đại quân của Lý Quang Bật đà tiến vào Hà Bắc. Bảy vạn đại quân của Điền Thừa Tự đội ngược lại nguyện trung thành với Đường triều, bảy vạn đại quân của Lý Từ Nghiệp đi vào Tinh Hình, còn mười vạn đại quân của Lý Bão Chân thì sắp nam xuống Hà Bắc, chúng tôi bốn bề thọ địch, mỹ cấp trong sớm tối rồi.”

Sứ Triều Nghĩa trong lòng rất ư lo lắng, hắn phảng phất như nhìn thấy được cảnh tượng quân Đường đà tới sát dưới thành ư Châu, dưới tình thế cấp bách đó, hắn lại một lẩn nữa hai đầu gối quỳ xuống, hai tay giơ ra, lớn tiếng cầu xin nói: “Thiên Khả Hàn, ta van cầu ngài. Phát binh trợ giúp chúng tôi đi! Chúng tôi biết, người vẫn luôn trợ giúp chúng tôi mà.”

Cái mà Ma Duyên Xuyết cẩn chính là thế này đây, hắn muốn xem Sử Tư Minh muốn đầu hàng hắn, hay là đầu hàng Đường triều, xem ra. Sử Tư Minh là muốn đầu hàng hắn rồi, hắn đà cùng đường rồi.

“Thôi được! Ta có thể xuất binh trợ giúp các ngươi, nhung các ngươi có thể cho ta cái gì? Đất đai hay là tài phú con gái?”

“Hết thảy nhưng thử mà chúng tôi có được đều có thể cho người cả. Người muốn đất đai. Chúng tôi dâng Hà Bắc cho người. Người cẩn tài phú con sái. Chúng tôi có thế đem kho bạc của Hà Bắc phủ và hai mươi mấy vạn dân đều hiến cho người.”

Ma Duyên Xuyết vẫn lắc đầu: “Chính ngươi cũng đà nói rồi, mấy chục vạn quân Đường tiến vào Hà Bắc. Đất đai Hà Bắc còn có thể để cho các ngươi tới làm chủ sao? Không! Ta không cẩn đất đai của các ngươi, cũng không cẩn tài phú con gái của các ngươi, ta không thèm.”

“Vậy người muốn cái gì?” Trong lòng Sứ Triều Nghĩa dâng lên một dự cảm xấu.

“Ta và Sứ Tư Minh quen biết nhau nhiều năm rồi, hắn cũng là người Đột Quyết, như vậy đi! Các ngươi có thể tự thành lập một bộ lạc, gia nhập Hồi Hột. Ta có thể đem đất đai phía Âm Sơn cho các ngươi, Để các ngươi nghỉ ngơi lấy lại sức, trờ nên mạnh hơn, sau này mới tìm quân Đường báo thù. Thế nào?”

Sứ Triều Nghĩa biết, thế này thật ra là sự biến tướng của việc đòi bọn họ đầu hàng Hồi Hột, với bôn ý của hắn, hắn tuyệt đối không chấp nhận, nhung trước khi đi, phụ thân hắn đà nói qua với hắn, chi cẩn có thể giữ được tánh mạng của cha con họ, hết thảy điều kiện đều có thể đáp ửng, bao gồm cả việc đầu hàng Hồi Hột.

Vạn bất đắc dĩ, Sứ Triều Nghĩa đành phải dập đầu thật mạnh một cái: “Chúng ta nguyện trung thành với Khả Hăn!”

Tốt! “Ma Duyên Xuyết đẩy hai cô gái bên người ra, đứng lên cười to nói:” Thế thì

Giờ khắc này, Ma Duyên Xuyết đã tò bõ chiến lược Bắc Đình rồi, tận sâu trong đáy lòng hắn vẫn bị sự tham lam và dục vọng chinh phục rồi.

Thành Chân Định ở Hằng Châu, mấy vạn quân Đường đang mãnh liệt tấn công tòa thành trì vững chắc này.

Lý Từ Nghiệp dẫn bày vạn quân Đường theo Tinh Hình tiến vào Hà Bắc, đầu tiên đã gặp phái sự chặn lại của đại tướng Bộc cố Sướng của quân Hồi Hột, Bộc cố Sướng là con trai của Bộc cốt Hoài Ân, vốn dĩ cũng là đại tướng Sóc Phương, sau khi phụ thân Bộc Cốt Hoài Ân bị Lý Khánh An ép bức vào Hồi Hột, Bộc cố Sướng cũng tò bó đi quân chức Sóc Phương, trốn về Hồi Hột, trờ thành một trong những tướng cốt cán chủ yếu của Bộc cốt bộ, hắn suất lĩnh hai vạn quân Hồi Hột trú phòng Dịch Châu, đã gặp phái sự tiến công quy mô lớn của quân Lý Tự Nghiệp.

Quân Đường quẩn áo gọn nhẹ qua Tinh Hình, tập kích Tinh Hình huyện thành công, lại ở Lộc Thành huyện chiến đấu với Hồi Hột, quân Hồi Hột không địch lại, tử thương nghiêm trọng.

Bộc Cố Sướng suất quân lui về Chân Định huyện, đồng thời chinh đốn một vạn ba nghìn tinh nhuệ, dựa vào tường thành kiên cố của Chân Định huyện, kháng cự lại với quân Đường.

“Tùng! Tùng! Tùng!” Tiếng trống tiến công của quân Đường rung trời, quân Đường rợp trời lấp đất đông như đàn kiến nhảy vào trong trận chiến công thành thảm thiết.

Đây đã là lẩn tiến công thứ tư rồi, ở trong ba lẩn tiến công trước đó, quân Đường trước sau đã gia nhập vào bốn vạn đại quân công thành, nhung đều đã thất bại, từ thương gần sáu nghìn mấy trâm người, đây là sự tử thương hiếm có của quân Đường trong mấy năm gần đây.

Ngoài xa hai dặm, chủ tướng quân Đường Lý Tự Nghiệp đang dõi theo trận chiến hận đến cả mắt cũng như muốn phụt trào ra lửa, cũng tràn đầy sự hối hận cực độ, lẩn công thành này không có nhưng vù khí công thành hạng nặng như thang mây, xe đụng thành và xe sào, chủ yếu là thạch đạo ở chỗ chật hẹp nhất của Hình Tinh chi có thế cho một con ngựa đi qua lọt, quân nhu căn bản là không thể vận chuyền được.

Nhưng dưới sự khinh địch của Lý Tự Nghiệp cũng phạm phải một sai lầm lớn, hắn vì muốn phỗng tay trên cướp lấy Hình Tinh huyện, hắn mệnh quân Đường quẩn áo gọn nhẹ mà hành quân, từ bò hết mọi quân nhu. Tuy rằng đã khiến ké khác bất ngờ mà chiếm được Tinh Hình huyện, nhưng hắn lại đem pháp bảo lợi hại nhất của quân Đường là chấn thiên lôi và hỏa dầu, cùng đặt ở một chỗ hậu cẩn quân nhu. Không có tùy quân mang theo.

Hắn cũng không ngờ rằng sẽ gặp phải trận chiến Thủ thành phòng ngự của quân Hồi Hột, đã nhiều năm như vậy, hắn cHứa từng đem quân Hồi Hột và trận chiến công thành liên kết lại với nhau, hắn đã quên rằng chủ tướng Bộc cố Sướng của quân Hồi Hột năm xưa chính là nổi tiếng nhờ vào phòng ngự ở Sóc Phương.

Trận chiến công thành không chút chuẩn bị khiến quân Đường đã thiệt một vố rõ đau.

Lúc này, phó tướng Vệ Bá Ngọc của Lý Tự Nghiệp khuyên hắn nói: “Tướng quân, chi bằng đứng thêm mấy ngày mới công thành, binh sĩ đã đi lấy chấn thiên lôi rồi, chậm nhất hai ba ngày bèn tới.”

"Không được!'

Lý Từ Nghiệp quả quyết cự tuyệt, “Chậm thêm hai ngày, Lý Quang Bật liền chiếm được ư Châu thành, đây là một trận chiến cuối cùng để Đại Đường khôi phục Hà Bắc, ta ngay cả một Chân Định huyện nho nhỏ cũng đánh chiếm không được, há chăng phải là để cho người trong thiên hạ nhạo báng Lý Từ Nghiệp ta ư?”

Hắn quay đầu lại hạ lệnh nói: “Nổi trống, ta muốn đích thân mặc giáp trụ công thành!”

Các quan quân xung quanh đều giật mình kinh hãi, cùng nhau khuyên hắn: “Tướng quân, người là chù soái một quân, sao có thể đích thân công thành?”

"Các ngươi không được khuyên ta!'

Lý Từ Nghiệp giận mắng chúng tướng: “Ta Lý Từ Nghiệp từ năm Thiên Bảo nguyên niên nhập ngũ, mỗi trận chiến đều xung phong ra trước, cHứa bao giờ tụt hậu, hôm nay công thành bất lợi, là trách nhiệm của ta. Ta há có thế không làm gương cho binh sì?”

Mọi người vẫn là kiên trì khuyên bảo, “Người trước kia chi là trung lang tiểu tướng, làm gương cho binh sĩ không gì đáng trách, nhưng người nay đã quan tới Phiêu Kị Đại tướng quân, quắc quốc công, tấm thân ngàn vàng há có thế xung làn mưa tên, xin suy xét kỹ lại a!”

Bất luận mọi người có khuyên bảo thế nào, Lý Tự Nghiệp vẫn nhất quyết không nghe, mặc vào khôi giáp hạng nặng, từ trong tay thân binh vớ lấy mạch đao của hắn, điểm tập năm nghìn binh sĩ xông đi về hướng thành trì.

Tiếng trống tiến công của quân Đường là nổi lên ầm ầm một lẩn nữa, một vạn binh

Sĩ quân Đường như cơn sóng trào to ập tới, khiêng lấy ba mươi mấy chiếc thang lao đi thành trì, lẩn này, chủ tướng Lý Tự Nghiệp thân đi trước sĩ tốt, làm cho sĩ khí quân Đường đại chấn, mũi tên rợp trời cuốn đất bắn sang đầu thành, cung tiền của binh sĩ Hồi Hột đã mất đi hiệu quả, trên tường thành mấy nghìn binh sĩ Hồi Hột bị ép sát không cục cựa được, không một ai có thé đứng dậy thăm dò.

“Ầm!” Một cái thang thô to đã kê lên trên đầu thành, hơn hai nghìn quân Đường đạp lên thi thể của bạn chiến xông lên thang, bắt đầu xồng xộc leo lên thành, quân Hồi Hột cũng liều chết kháng cự, không ngừng có cự thạch men theo thang mà đập xuống.

Mắt thấy quân Đường bị cự thạch liên tiếp không ngớt đập trúng thẳng lộn rơi thành, Lý Tự Nghiệp cả giận, hắn đã lựa chọn một điểm công thành có tử thi chất đống nhiều nhất, làm người đầu tiên bò lên trên thang gỗ, thang gỗ là dùng gỗ sam thẳng tắp làm nên, vô cùng kiên cố, hắn mặc trọng gìáp của Mạch đao quân, một tay cầm lấy đại thiết thuẫn, một tay cầm lấy mạch đao, từng bước bò lên trên đầu thành.

Một khối cự thạch rít gió đập xuống, “tang!” Một tiếng vang lớn, cự thạch đập trúng vào thiết thuẫn. Lý Tự Nghiệp cả người run lên một cái, nhung không bị đập ngã, cự thạch bị hắn dùng thuẫn hất xuống, hắn lại leo lên được mấy bước, lúc này đầu thành tên như mưa trút, bắn về phía hắn, chi nghe thấy một tràng tiếng leng leng keng keng vang lên, mũi tên bắn lên trên trọng gìáp của hắn, nhưng không thế nào xuyên thủng, Lý Tự Nghiệp thét to một tiếng, xông mạnh lên phần ngọn thang, mạch đao một tay bổ ra, bốn binh sĩ Hồi Hột tránh né không kịp, bị bố ra thành tám khúc.

Lý Tự Nghiệp dứt khoát vứt bỏ cả khiên đờ, hai tay vung mạch đao lên, chi thấy máu bay mịt mù, thịt nát tử tung, trong thoáng chốc, hai mươi binh sĩ Hồi Hột bị hắn chém chết.

Nhung ở nơi Lý Tự Nghiệp leo tường, là do một toán quân Hồi Hột cường hẳn nhất đứng gác, binh sĩ Hồi Hột mắt thấy đại tướng quân Đường sắp phải đăng tường, bọn họ cũng máu đỏ cả mắt, bất chấp mọi thứ xông lên, mấy trăm người chặt bít đi lỗ châu mai mà Lý Tự Nghiệp đăng tường, nhất thời tiếng thét siết cao vút tận trời, Lý Tự Nghiệp vung đao chật siết, dưới thành tên như vù bào, trên thành dưới thành tứ thi chất đống như núi. Nhưng quân Hồi Hột cũng liều chết chống đờ, tứ thi chồng chất bít chặt lấy lỗ châu mai, làm cho Lý Tự Nghiệp vẫn cHứa thể đăng lên thành.

Lúc này, chủ tướng quân Hồi Hột Bộc cố Sướng cũng nghe tin chạy tới, hắn vừa nhìn đã nhận ra đại tướng như thiên thần, tâm phúc hàng đầu của Lý Khánh An đại tướng Lý Tự Nghiệp, năm xưa cha hắn Bộc cốt Hoài Ản ở An Tây cũng chịu nhiều sự hà hiếp nhục nhă của Lý Tự Nghiệp.

Bộc Cố Sướng rút ra một mũi xuyên giáp độc tiễn, hắn biết trọng giáp mạch đao quân cơ hồ là đao thương bất nhập, nhung chỗ đôi mắt lại không thể nào che dấu, đó chí là chỗ điềm yếu của nó.

Bộc Cố Sướng trương cung cài tên, ngoài xa ba mươi bước nhắm thẳng vào Lý Tự Nghiệp, cung kéo thành hình trăng đầy, dây cung buông lỏng một cái, độc tiền xuyên giáp nhanh như chớp bắn đi vào mắt trái của Lý Tự Nghiệp, lúc này Lý Tự Nghiệp vừa mới chặt đi đầu người của một tên thiên phu trường, độc tiền đã đến trước mắt, hắn không kịp đề phòng, “phập!” Một tiếng, độc tiễn đã bắn trúng vào mắt trái của hắn.

Lý Tự Nghiệp kinh thiên động địa mà hét lớn một tiếng, xoay người từ đầu thành té xuống, Bộc Cố Sướng hung phấn mà hô to: “Lý Tự Nghiệp đã bị ta bắn chết!”

Trên đầu thành bỗng chốc tiếng hoan hô như sấm, binh sĩ quân Đường thấy chủ tướng rơi xuống thành, bọn họ cũng không còn lòng dạ nào chiến đấu nữa, mấy chục viên thân binh liều chết cướp lấy Lý Tự Nghiệp trên người đang mang trọng thương, lui về bản doanh.

Vệ Bá Ngọc hạ lệnh ngừng lại việc công thành, tạm thời chi huy đại đội quân Đường triệt lui đến Lộc Thành huyện, ngay đêm hôm đó, Lý Tự Nghiệp vì chất độc trong tên phát tác, chết trong quân doanh, danh tướng một đời, chi vậy mà chết đi.

Tam quân khóc Rõng, cả thành để tang, con trai Lý Tự Nghiệp là Lý Tá Quốc suốt đêm chạy vội về Trường An, báo tang với triều đình.

Hằng Châu tiến công bất lợi, nhưng Lý Quang Bật lại suất lĩnh hai mươi vạn đại

Quân chủ lực suốt dọc đường thế như chẻ tre, đã công đến Mạc Châu sát gần với u Châu, tiền phong đại tướng Lý Nhật Việt đã bước vào u Châu, còn Lý Bão Chân cũng suất sáu vạn đại quân từ Bình Châu tiến vào Kế Châu.

Hai hôm sau, Hồi Hột đại tướng Bộc cốt A Đóa Tư ở Ngư Dương bị Lý Bão Chân đại bại, dẫn tàn quân từ Đàn Châu trốn về thào nguyên, Hồi Hột đại tướng Bộc cố Sướng cũng biết sự báo thù của quân Đường sẽ vô cùng mănh liệt, hắn tự biết không giữ được Chân Định thành, bèn suất quân bỏ thành bắc đào, từ Dịch Châu lui về thào nguyên.

Quân Hồi Hột đều lui cả, Sử Tư Minh cũng biết đại thế đã mất, hắn phóng túng binh sĩ mặc sức cướp bóc u Châu thành, cướp sạch sành sanh u Châu thành.

Ngày hai mươi tháng ba, Sử Tư Minh dẫn mười vạn quân Đột Quyết từ Cư Dung quan lui ra khói Hà Bắc, tò đó, toàn địa phận Hà Bắc đã khôi phục lại.

Nhung chiến dịch vẫn cHứa kết thúc, trái lại, Sử Tư Minh bắc lui đã kéo ra một màn chiến dịch lớn hơn, mười vạn thiết kỵ Hồi Hột đang tò sâu bên trong thào nguyên từ phía nam phi nhanh tới, trên thào nguyên, cờ Khả hẳn đầu sói bay phần phật trong gió.

(Trên lịch sử, Lý Tự Nghiệp là năm Càn Nguyên thứ hai chết ở Tương Châu, cũng là trúng tên mà chết, còn Bộc cố Sướng cũng là mănh tướng Đại Đường, ở đây đem hắn dựng thành một nhân vật vào vai phàn diện.)

Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện