Khi hai chị em Timoken đi ra vườn, họ được chào đón bằng những tiếng reo hò nồng nhiệt. Những đứa bé trai quây quần xung quanh họ, từng người một, đứng ra giới thiệu mình với Zobayda, nụ cười của cô càng lúc càng tươi hơn. Rồi sau đó cô nhìn thấy Beri ngồi một mình trên hòn đá.

“Vậy còn cô bé này là ai?” Zobayda hỏi, nhìn về phía Beri.

“Một cô gái dũng cảm đến từ Toledo,” Timoken nói.

“Ta đã từng gặp qua cô thì phải,” Zobayda hỏi.

“Vâng,” Beri đứng dậy. “Cha tôi đã đưa tôi đến đây... để mua một con búp bê.”

“Cha cô,” Zobayda cau mày. Giờ thì cô đã nhận ra cô bé. “Ta xin lỗi.”

“Phải. Đó là Esteba Diaz,” Beri đan hai tay vào nhau. “Tôi rất mừng khi thấy bà... đã phục hồi,” cô nói với Zobayda, “nhưng tôi không thể vui cười trong lúc này.” Cô lướt mắt qua những đứa con trai, rồi đừng lại ở Timoken. “Tạm biệt,” cô nói. “Chúc cậu nhiều may mắn.” Trước khi mọi người kịp phải ứng, cô nhẹ nhàng bước ra khỏi cổng và ra đi.

Chỉ một lúc sau khi Beri đi khỏi, hai người đàn ông trong trang phục chỉnh tề đến trước cửa.

“Những đứa trẻ mồ côi nói với tôi rằng bọn xâm lược đã bị đánh đuổi,” người đàn ông trẻ hơn nói.

“Trẻ mồ côi ư?” Timoken nói.

“Thật buồn khi thấy nhiều đứa trẻ đã trở nên mồ côi trong thành phố,” người đàn ông lớn tuổi hơn nói. “Cũng không trách được khi cậu không nhận ra chúng, nhưng chúng là người đã chứng kiến những gì đã xảy ra.”

“Chúng tôi đến đây để chúc mừng và cũng là để cảm ơn cậu.” Dù đang mặc quần áo chỉnh tề, nhưng gương mặt của người đàn ông trẻ tuổi nói rằng, ông đã trải qua nhiều cuộc phiêu lưu. Tóc của ông đen nhánh và xoăn tít, ông ta đeo một chiếc bông tai ở tai trái. “Tôi tin rằng một người trong số các cậu... làm sao tôi có thể diễn tả đây... một pháp sư chăng?”

“Em trai tôi, Timoken.” Zobayda tự hào nâng cánh tay của em mình lên.

Timoken thật ngạc nhiên khi thấy hai người đàn ông cúi người. Họ tự giới thiệu là Francisco Padilla, người lớn tuổi hơn trong hai người, và Juan Pizarro. Họ là những thương nhân giàu có, họ nói rằng, họ sẽ rất lấy làm vinh hạnh khi được chiêu đãi vị pháp sư và những người bạn của cậu một bữa yến tiệc. Tuy nhiên, mọi người đang chìm trong nỗi đau mất đi một người lính dũng cảm và đáng tự hào như Esteban Diaz, thế nên, bản thân họ và những người dân trong thành phố sẽ không ai đến dự tiệc. “Nhưng tất cả các bạn,” Francisco nói, nghiêng người trước những người bạn nhỏ, “tất cả sẽ được chiêu đãi những món ăn ngon nhất mà chúng tôi có và chúng tôi rất vui khi được mòi các bạn nghỉ lại tại nhà tôi, mỗi người sẽ có một chiếc giường thật êm ái.”

Timoken cảm ơn Francisco. Cậu rất mong chờ được dự bữa tiệc, nhưng cậu nói, cậu muốn được ở lại nhà chị mình, tuy nhiên, các bạn cậu - những cậu bé người Anh - họ sẽ tự mình quyết định.

“Người Anh?” Juan Pizarro nói, cau mày suy nghĩ. “Đó là cả một quãng đường dài.”

“Bọn họ đã bị bắt cóc,” Timoken giải thích. “Nhưng họ đang nóng lòng để trở về nhà của mình, ngay khi có thể, còn tôi thì...” Cậu nhìn Zobayda. “Tôi đã định đi cùng họ, nhưng giờ thì...”

“Chị vẫn chưa chán những chuyến phiêu lưu,” Zobayda vui vẻ nói. “Giờ thì không gì có thể chia rẽ chúng ta nữa.”

Cho tới lúc này, bốn cậu bé người Anh vẫn có vẻ sửng sốt. Timoken nhanh chóng phiên dịch để họ hiểu câu chuyện. Cậu không thể nhịn cười khi đề cập đến bữa tiệc, mắt của bốn người bạn của sáng rực lên khoái chí, thậm chí, Mabon còn lấy tay xoa bụng.

Khi Timoken phiên dịch, Juan Pizarro lấy tay vuốt râu, quan sát: “Tôi có một con thuyền. Nó sẽ đi về hướng Bắc trong bảy ngày tới. Nó sẽ chở lụa và thảm đến Anh. Các cậu có thể đi theo con thuyền đó. Nhung các cậu phải rời thành phố vào sáng sớm mai.”

Khi Timoken phiên dịch lời của Juan Pizarro, những đứa trẻ reo hò, ôm lấy nhau vui mừng.

“Những con ngựa mới sẽ được chuẩn bị sẵn cho các cậu vào ngày mai,” Juan nói. “Các cậu có thể để nó lại bến cảng và người của ta - Pedro - sẽ đến mang chúng về.”

“Xin cảm ông,” Timoken ngần ngại nói. “Tôi có một con lạc đà, và tôi không thể để nó lại đây được.”

“Một con lạc đà. Phải rồi. Nó đang được chăm sóc trong chuồng của ta.” Juan cau mày, lại tiếp tục vuốt râu: “Ta sợ rằng thuyền trưởng sẽ không cho phép nó lên tàu.”

“Tôi sẽ thuyết phục ông ấy,” Timoken nói.

Tối hôm đó, năm người bạn cùng với Zobayda được tham dự một bữa tiệc lớn đến mức họ không thể tưởng tượng được. Trên bàn có đầy những hộp chứa trái vả, những thứ trái cây mà những cậu bé người Anh chưa bao giờ thấy; những đĩa đầy những món cá lạ, hấp hoặc nướng, đủ loại thịt khác nhau; trứng muối và những miếng phô mai to quá khổ màu xanh chất đầy xung quanh những khúc bánh mì nâu giòn rụm. Cuối cùng là món tráng miệng với bánh hạnh nhân và nhiều loại bánh kem đủ mùi vị.

“Những thức ăn này con ngon hơn những món ăn của hoàng tử nước tôi,” Edern nói, cậu ngắm nhìn trần nhà được thắp sáng bằng những ngọn nến lung linh. Những bức tường được trang trí bởi những tấm thảm nhiều màu sắc, trần nhà thì được vẽ bằng những hoa văn màu đỏ và vàng.

“Thật tốt khi lại được ăn bằng dao và nĩa,” Gereint nói, cậu có vẻ kén chọn hơn những người bạn của mình.

Mabon không hề quan tâm đến dao và nĩa. Cậu lấy đầy thức ăn vào cái đĩa bằng đồng của mình, ăn ngấu nghiến như thể đây là bữa tối cuối cùng của cậu. Mặt đất xung quanh cậu đầy những xương, xung quanh đĩa của cậu toàn những vụn bánh mì và những trái cây đang ăn dở. Cậu quyết tâm nếm thử tất cả mọi thứ.

Timoken trao dổi ánh mắt với chị của mình, cô đang ngồi ngay bên cạnh cậu. Họ vẫn có thể nhớ rõ những ngày còn ở vương quốc bí ẩn, khi họ được ăn trong đĩa bằng vàng, và uống nước từ chiếc cốc bằng bạc. Timoken cũng nhớ cả những đêm cùng ăn tối với những người bạn đồng hành của mình, họ ngồi bên nhau bên đống lửa, ăn những thức ăn kiếm được trong rừng, khung cảnh quanh họ là bầu trời đầy sao. Cậu tự nhủ với mình rằng, đó là những bữa tiệc ngon nhất.

Khi họ đã no căng đến mức không thể ăn được nữa, mắt họ gần như đã nhắm lại, những đứa trẻ người Anh được dẫn đường đến những chiếc giường đã được chuẩn bị sẵn sàng. Đó là hai căn phòng lớn, mỗi phòng có bốn chiếc giường. Khăn trải giường được làm bằng vải lanh thật mịn, những tấm rèm thì được làm bằng lụa.

“Chúng ta có thể cùng ngủ trên một cái gường,” Edern nói.

Nhưng những đứa trẻ còn lại đều nói rằng, chúng muốn được ngủ trên chiếc giường thật to, dù chỉ là một đêm. Vì Edern không phải là đứa ghét chật chội, nên cậu quyết định ngủ cùng với Mabon, đứa trẻ to lớn nhất trong cả bọn, anh bạn này lẽ ra nên có hẳn một cái giường riêng.

“Có lẽ đêm nay tớ sẽ không tài nào chợp mắt được,” Edern thì thầm với Timoken, khi cậu đi đến để chúc mọi người ngủ ngon. “Hôm nay Mabon ăn quá nhiều, tôi cá là đêm nay cậu ta sẽ ngáy như sấm.”

Timoken vẫn thấy buồn cười khi cậu đi về với chị mình.

“Lúc nào chị cũng mong có một đứa con,” Zobayda nói với em trai. “Nhưng Tariq và chị không có được may mắn đó. Nhưng giờ chị đã có những năm đứa trẻ để chăm sóc. Chị thật hạnh phúc.”

“Lẽ ra sẽ là sáu,” Timoken nói, cậu đang nghĩ đến Beri.

Trước khi đi, Timoken đến để cảm ơn những người đầu bếp của Francisco Padilla vì những món ăn thật tuyệt vời, cậu cũng gửi đến chủ của họ những lời chúc tốt đẹp nhất. “Và còn một điều nữa. Thức ăn vẫn còn thừa quá nhiều; xin các ông hãy mang chỗ thức ăn ấy cho những đứa trẻ mồ côi trong thành phố.”

“Chúng tôi sẽ làm những điều tốt nhất cho chúng,” người bếp trưởng nói. “Francisco Padilla sẽ rất vui khi chấp nhận lời đề nghị của cậu.”

Khi họ bước ra bầu trời đêm lạnh lẽo, Timoken hỏi: “Zobayda, chị có biết Beri sống ở đâu không?”

“Tất nhiên rồi. Mọi người đều biết. Esteban Diaz có một căn nhà rất lớn ở đầu thành phố?’

“Chị có thể đưa em đến đấy không?”

“Timoken,” Zobayda dịu dàng nói. “Không ai đến nhà họ vào lúc này cả. Gia đình họ hẳn là đang rất đau buồn.”

“Hãy đưa em đi mà,” Timoken nài nỉ.

Cuối cùng thì Zobayda cũng đưa em mình đi lên con dốc, đến một căn nhà rộng lớn được trang trí bằng nhiều bức phù điêu. Timoken đi lên những bậc thang và gõ vào cánh cửa lớn bằng gỗ sồi. Không có tiếng trả lời. Cậu nghe thấy tiếng khóc từ sau bức tường dày. Tiếng khóc vang lên từ khắp mọi nơi trong tòa nhà.

“Đi thôi, Timoken,” Zobayda nói.

Timoken đứng chờ thêm một lúc nữa, mặc dù cậu biết là đã không còn hy vọng nào nữa. Nhưng nghĩ đối việc không bao giờ còn gặp lại Beri nữa, cậu thấy thật đau lòng.

“Em chỉ muốn đến tạm biệt thôi,” Timoken thì thầm, miễn cưỡng rời xa cánh cửa.

Hai chị em Timoken có quá nhiều chuyện để kể cho nhau nghe, họ chỉ chìm vào giấc ngủ khi đã quá nửa đêm. Chỉ vài tiếng sau, Timoken nghe thấy tiếng bước chân từ ngoài sân.

“Cậu đã sẵn sàng chưa, Timoken?” Edern nói, khi Timoken thò gương mặt ngái ngủ của cậu ra ngoài cửa. “Những con ngựa đang đợi chúng ta đấy. Những người khác đã lên ngựa cả rồi, Juan Pazirro cũng đã cho người đi theo chỉ đường cho chúng ta.”

“Chúng tớ đã nói chuyện,” Timoken dụi mắt. “Ngựa, cậu nói...” Cậu giật mình choàng tỉnh. “Nhưng còn con lạc đà của tớ, Gabar thế nào rồi? Tối hôm qua, tớ quên mất nó, có quá nhiều chuyện xảy ra.”

Edern cười: “Con lạc đà đã được chăm sóc rất tốt. Cậu bé chúng ta gặp ở cổng thành phố đã chăm sóc cho nó.”

Timoken quay lại, cậu nhìn thấy Zobayda đang vội vã ném những vật dụng của mình vào túi.

“Chị không thể bỏ những món đồ chơi này lại được,” cô nói. “Chị phải đem theo cái gì đó gợi chị nhớ về Tariq.”

Timoken kiên nhẫn ngồi nhìn chị mình quấn những con thú vào khăng choàng và váy. Cô bỏ đồ vào hết túi này đến túi khác. Họ không thể mang nhiều thứ như vậy xuống đường, nên Timoken chạy đi tìm Gabar, dắt nó đến tận bậc thềm.

Thật là một cuộc hội ngộ lạ lùng. Zobayda và Gabar nhìn nhau chằm chằm trong chừng một phút, cho đến khi Zobayda nhẹ nhàng hỏi: “Em có nghĩ là nó nhận ra chị không?”

Gabar gần như bất động. Không một cơ bắp nào của nó cử động, không một cái vẫy đuôi, mí mắt cũng không chớp.

“Ngươi có nhớ Zobayda không?” Timoken hỏi con lạc đà.

“Tôi vẫn không thể nào quên được,” Gabar nói.

Với Zobayda, tiếng kêu của Gabar như đang chào đón cô. Cô bước xuống bậc thềm, đến gần và hôn lên mũi con lạc đà, con lạc đà dí mũi vào cổ cô. Dường như họ chưa bao giờ phải xa nhau.

Họ đuổi kịp những người khác ở trên cầu, một cuộc hành trình dài nữa lại bắt đầu.

Họ đến bến cảng chỉ vừa kịp lúc. Hàng hóa đã được chất hết lên tàu từ tối hôm qua, chuẩn bị sẵn sàng để lên đường vào sáng hôm sau. Người dẫn đường Pedro đi bằng một con thuyền nhỏ đến gặp người thuyền trưởng, đưa cho ông lá thư đã được đóng dấu của ông chủ. Cậu ta trở về với một tin tốt và một tin xấu. Người thuyền trưởng rất vui khi chào đón sáu đứa trẻ và một quý bà lên tàu, nhưng không phải là con lạc đà, điều đó là không thể. Con lạc đà quá lớn, quá nặng và nguy hiểm.

“Nhưng nó là một con lạc đà biết nghe lời,” Timoken phản đối.

Pedro lắc đầu: “Họ không cho phép nó lên tàu.”

Timoken nhìn Gabar. Không biết nó có hiểu những điều Pedro vừa nói không? Nó không có biểu hiện gì khác thường cả. Mắt nó lúc nào cũng buồn bã, nó luôn luôn tỏ ra ngoan ngoãn.

“Tôi sẽ đảm bảo rằng con lạc đà được đối xử thật tốt,” Pedro trấn an. “Juan Pizarro sẽ chăm sóc nó thật chu đáo. Nó sẽ có một cuộc sống vui vẻ.”

Timoken dẫn Gabar đến noi những con ngựa đang được cột. Cậu nhìn con lạc đà uống từng ngụm nước lớn từ trong máng, cậu rời đi khi Gabar vẫn còn đang quay đi. Cậu không biết làm cách nào để nói lời từ biệt với người bạn đồng hành của mình trong suốt hai trăm năm qua.

Trên thuyền chỉ có một căn phòng duy nhất ở cạnh hầm rượu. Zobayda cố thuyết phục mọi người rằng, cô có thể ngủ bên những kiện rơm, nhưng cuối cùng thì cô cũng chấp nhận chiếc gường, những đứa trẻ sẽ ngủ ở kho thóc cạnh cái chuồng.

Timoken không buồn ngủ. Cậu nằm trên đống rơm, đầu gối lên hai tay. Nhìn ra bầu trời đêm. Cậu có thể nghe thấy tiếng những con vật đang di chuyên trong chuồng, cậu nhớ tới Gabar.

Một cái bóng nhỏ, đang cầm cây đèn, xuất hiện ở cửa, một người nhỏ nhắn, quay lưng về phía ánh sáng.

Timoken với tay lấy con dao ở thắt lưng, nhưng một giọng nói dịu dàng vang lên: “Timoken, mình đây.”

Những đứa trẻ khác cũng tỉnh dậy. Những chuyến đi nguy hiểm làm mọi người phản ứng nhanh nhạy với bất kỳ tiếng động nào.

“Ai đấy?” Peredur nói.

“Là tôi đây, Beri.”

“Beri?” Timoken ngồi bật dậy.

Ngọn đèn được giơ cao lên, Timoken có thể nhìn thấy cô rõ hơn. Cô lại hóa trang thành một cậu con trai, tóc của cô được giấu sau chiếc nón da.

“Đó là thỏ rừng nhảy nhót,” Mabon reo lên.

“Thỏ Rừng!” Gereint cũng reo lên.

“Chúng ta sẽ lại có sáu người,” Mabon nói như reo. “Chó sói và gấu, cá và Đại bàng...”

“Mặt trời rực rỡ và thỏ rừng nhảy nhót.” Edern nhổm dậy khỏi chiếc gường rơm, bò lại chỗ Timoken.

Beri tiến vào kho thóc, ngồi xuống bên những cậu con trai. “Một người bạn của mình làm thợ phụ trong nhà bếp của Francisco Padilla,” cô nói. “Cô ấy nói cho mình biết về con thuyền khi nghe các cậu nói chuyện với nhau. Mình rời thành phố chỉ một giờ sau các cậu. Ngựa của mình đã về chuồng và bây giờ, mình chả mong muốn gì hơn là một giấc ngủ.”

“Nhưng cậu đang rất đau buồn... còn mẹ cậu...”

“Mình có đến bảy anh chị em, họ có thể làm cho mẹ mình vui vẻ,” Beri thở dài. “Bà ấy sẽ lại tìm cách gả mình cho một người đàn ông giàu có và nhàm chán. Bà ấy sẽ không nhớ mình đâu.”

“Tớ thật sự, thật sự rất vui vì có cậu đi cùng,” Timoken nói và cười thật tươi dưới ánh đèn lồng, Beri cũng phá lên cười.

“Cô ấy sẽ đi với chúng ta,” cậu nói với những người bạn.

“Hoàng tử của chúng tôi rất thích những người khách,” Edern nói. “Ngài rất vui khi chào đón những người khách đến từ khắp mọi nơi. Đặc biệt là cậu, Timoken,” cậu nói thêm. “Và rồi, dĩ nhiên, chú của tôi, nhà ảo thuật, sẽ vô cùng sung sướng...”

Timoken đã nghe tất cả những câu nói này, cậu biết rằng Edern chỉ muốn nhấn mạnh với cậu về sự chào đón nồng nhiệt mà cậu sẽ được nhận ở một vùng đất mới.

Beri đã quá buồn ngủ. Cô ngáp một cái dài rồi nằm xuống ở một bụi rơm cuối kho thóc. Cô ngủ ngay khi vừa đặt lưng xuống.

Timoken biết mình sẽ không bao giờ ngủ được khi chưa hoành thành xong nhiệm vụ, nó đã trở thành một thói quen không thể bỏ. Cậu đứng dậy và đi ra ngoài. Cậu có thể nghe thấy tiếng sóng biển dào dạt vỗ bờ. Đi ra vùng vịnh, cậu có thể trông thấy rõ con tàu lớn, cậu thấy lòng mình thật nôn nao. Cậu đi vào trong chuồng. Gabar đang nằm ngay phía sau cửa, như thể nó đang chờ đợi một người. Timoken ngồi xuống bên cạnh nó.

“Gabar, ngươi còn thức không?”

“Tôi vẫn chưa ngủ.”

“Ta là một tên hèn nhát phải không. Ta đã không thể nói lời tạm biệt.”

“Tạm biệt ư?” Gabar cúi đầu.

“Họ nói rằng họ không thể cho ta đem ngươi đi Anh. Chúng ta phải lên một con tàu và nó thật nguy hiểm khi dắt theo một con lạc đà.”

“Tôi hiểu rồi,” Gabar nói. “Tôi chỉ là một con lạc đà. Tôi không thể giúp được nhiều cho cậu như những con chim hay báo. Cậu không cần tôi nữa.”

“Gabar!” Timoken tha thiết nói. “Ngươi vẫn giúp ta mỗi ngày trong suốt cả cuộc đời. Nếu không có ngươi, ta chỉ muốn chết thôi.”

Gabar nhìn Timoken. Nó có phải đang cười không? Nhưng chắc chắn nó đã chảy nước mắt.

“Ta thật là một người ngu ngốc!” Timoken khóc và đứng dậy. “Ta không thể bỏ ngươi lại được. Ta sẽ không làm thế. Chúng ta sẽ cùng bay. Ngươi nghĩ sao nào?”

“Tôi nghĩ chúng ta sẽ cùng bay,” Gabar nói.

“Đó là cả một đoạn đường dài... bay qua cả đại dương...”

Gabar ngẩng đầu lên và đứng dậy: “Tôi đã sẵn sàng.”

“Không phải bây giờ,” Timoken nói, cười vang.

“Sắp rồi phải không?”

“Sắp rồi.”

Họ cùng nằm bên nhau bên đống rơm, cậu bé và con lạc đà của cậu, cuối cùng thì Timoken cũng chìm vào giấc ngủ.

Những người còn lại trông có vẻ lo lắng khi Timoken nói cho họ nghe về kế hoạch của mình vào sáng hôm sau.

“Đại dương mênh mông lắm,” Edern nói. “Cậu sẽ rơi xuống mất. Cậu sẽ chết chìm.”

“Cậu ấy sẽ không ngã đâu. Cậu ấy cũng sẽ không chết chìm,” Zobayda nói. “Timoken và ta đi xa hơn cả đại dương rộng lớn nhất. Vì thế, ta tin tưởng em mình.”

Thế là tất cả đều đồng ý. Trước khi Edern bước lên tàu, cậu miêu tả từng chi tiết một về lâu đài của hoàng tử. Đó là tòa nhà cao nhất ở phía tây nước Anh, nó có màu hoàng kim. Ngọn đồi bên dưới tòa lâu đài được bao phủ bỏi một rừng cây bao la. Rừng cây có thể có màu đỏ hoặc màu vàng, tùy vào mùa trong năm.

Timoken nghĩ đến vương quốc bí ẩn. Cậu nhìn những người bạn của mình lên thuyền, khi con thuyền kéo mỏ neo lên, cậu cũng trèo lên con lạc đà của mình. Cậu nắm lấy túm lông bờm xờm ở sau lưng Gabar, hô lên: “Lên nào, Gabar! Lên nào!”

Con lạc đà bay lên không trung nhẹ nhàng như một con chim. Họ bay lên trên con tàu, thỉnh thoảng họ cũng bị mất dấu con tàu vì những đám mây dày, thỉnh thoảng, họ lướt trên bọt sóng ngay bên cạnh con tàu. Vào ban đêm, họ nhìn xuống để ngắm nhìn những chiếc đèn lồng được thắp trên boong tàu. Thỉnh thoảng, Timoken cũng cảm nhận được ba đôi mắt đẹp, màu vàng đang nhìn về phía cậu. Và cậu thấy một đốm màu đỏ như mặt trời, một đốm màu cam như ngọn lửa và một đốm màu vàng như ngôi sao.

“Ta tự hỏi làm sao chúng có thể lên tàu được,” Timoken nói, mỉm cười một mình.

Tòa lâu đài không xa bờ biển là mấy, vị thuyền trường cho tàu cập bến ở nơi gần nhất có thể, rồi ông còn cho hai người thủy thủ khỏe mạnh đưa họ vào bờ bằng thuyền nhỏ.

Timoken nhìn chị cậu và những người bạn đi đến bãi biển từ trên cao. Khi họ bắt đầu đi vào đất liền, cậu bay liền theo sau, và rồi, cậu bay lên trước. Ngay khi cậu đến ngọn đồi nhô lên giữa rừng cây mùa thu. Trên đỉnh đồi là một tòa lâu đài. Một toà lâu đài xây bằng vàng giữa biển.

“Chúng ta tới nơi rồi, Gabar,” cậu reo lên mừng rỡ.

“Đây là đâu, Timoken?”

“Nhà của chúng ta,” Timoken nói.
Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện