“…Huyết Y Giáo là một trong tam đại thế lực của Tuyết Vực nơi cực Bắc, trong giáo có đông đảo cao thủ, Tiên Thiên gần trăm, đứng đầu nhất là chín vị Huyết Y Giáo Chủ và một vị Huyết Y Đại Tế Tư, cả mười người đều là cao thủ Huyền Tàng, cùng nhau thống trị giáo phái chứ không có một vị giáo chủ tối cao.”
Dưới một cây cổ thụ cành lá sum sê, hai thầy trò Từ Hiền trải thảm mà ngồi, sau lưng mỗi người là một chiếc ghế ngồi bệt làm bằng Tụ Linh Mộc có chỗ dựa, trước mặt mỗi người là một quả dừa tươi ngon mọng nước mua từ Đoạn Nghĩa Lâu, Từ Hiền dùng một chiếc nồi thần nấu bữa trưa, Lý Tự Thành thì đọc báo cho hắn nghe, Đậu Phụ nằm ngủ ngay bên cạnh, cái gọi là hưởng thụ sợ rằng cũng chỉ đến thế.
Không mâm vàng cỗ ngọc, không cung điện xa hoa, không gan rồng tủy phượng, tất cả những điều nghe chừng rất trân quý ấy đều không cần, bởi nhiều khi những thứ bình đạm, giản dị mới là thứ quý giá nhất.
Rột! Rột! Dùng một cái ống hút cũng làm bằng Tụ Linh Mộc để hút nước dừa, Từ Hiền tựa lưng vào ghế, đầu ngửa ra sau, mắt nhìn cành lá rậm rạp che hết nắng nóng, nghe Lý Tự Thành đọc tin tức về Huyết Y Giáo, hắn nhẹ giọng bình luận:
“Nhiều người thống trị ngang cấp như vậy, có cái hay cũng có cái dở. Huyết Y Giáo này có thể phát triển đến mức này, hẳn là phân chia lợi ích rất đồng đều.”
Lý Tự Thành nghe cái hiểu cái không, chỉ có thể tiếp tục chú tâm vào tờ Võ Lâm Thời Đại mà tiên sinh nhà mình dùng một tờ Giang Hồ Nhật Báo đổi lấy từ vị Lý tiền bối kia trước lúc chia tay.
Hai tháng trời theo Từ Hiền bôn ba, hết xem hắn soạn bản thảo tiểu thuyết lại đến đọc báo học từ mới, Lý Tự Thành đã nhận biết được rất nhiều mặt chữ, việc đọc trôi chảy một tờ báo đối với gã bây giờ hoàn toàn không có gì khó khăn.
Cũng học tiên sinh nhà mình hút một ngụm nước dừa để thấm giọng, Lý Tự Thành tiếp tục: “Trấn môn chi bảo của Huyết Y Giáo là một con linh thú gọi Băng Ti Huyết Tằm Vương, diệu dụng nhiều mặt, trong đó có một loại công dụng thường thấy nhất là để chế tạo bảo y...”
“…Băng Ti Huyết Tằm Vương nhả ra một loại tơ tằm cực phẩm có màu đỏ như máu, lạnh như băng, y phục được chế tác từ loại tơ này có thể co giãn tùy ý, đao kiếm không thương, tự động tẩy uế, nhiều loại công năng hữu dụng.”
Từ Hiền nghe đến đây liền tặc lưỡi cảm thán: “Tơ lạnh như băng? Chậc, vậy chỉ cần mặc vào thì không cần sợ nóng. Nhưng sợ là cũng chỉ người tập võ mới có tư cách khoác lên, người bình thường mà không có nội công hộ thể, e rằng mặc được một hai hôm là có thể chầu tổ tiên vì chết rét.”
Lý Tự Thành lại gãi đầu thắc mắc: “Tiên sinh, nếu là người tập võ thì không sợ nóng lạnh, vậy loại công năng này chẳng phải vô dụng sao?”
Từ Hiền lắc đầu một cái, cười nhạt giải thích: “Không sợ nóng lạnh chẳng đồng nghĩa với việc ngươi sẽ không cảm thấy khó chịu vì nhiệt độ, như ta ngươi lúc này chẳng phải cũng đang tìm nơi bóng mát tránh nắng hay sao?”
Rột!
Làm tí nước dừa, hắn còn nói: “Vả lại… ngươi xem tên môn phái này là gì? Là Huyết Y Giáo, đoán chừng mỗi người trong giáo phái này đều khoác một bộ bảo y như thế. Họ sinh sống ở Tuyết Vực, đã quen với loại khí hậu rét lạnh, khắc nghiệt nơi đó. Nếu mà bước vào Trung Nguyên, gặp phải thời tiết oi bức thế này, ta tin rằng loại công năng kia chính là thứ bọn họ cảm thấy đáng giá nhất của bộ bảo y trên người.”
“Đa tạ tiên sinh, Tự Thành thụ giáo!”
Lý Tự Thành vái Từ Hiền một cái, tỏ vẻ bản thân nhờ hắn mà được thêm kiến thức, sau đó đọc tiếp tin tức trên báo:
“Kẻ thù của Huyết Y Giáo cũng là một trong tam đại thế lực của Tuyết Vực, xưng là Lãnh Hàn Cung. Lãnh Hàn Cung tuy nhân số không nhiều nhưng cao thủ đông đảo, nổi tiếng với…”
Đọc một số tin tức đường viền về Lãnh Hàn Cung, đoạn gã lại tiếp tục với tin chính:
“…thù hận giữa Huyết Y Giáo và Lãnh Hàn Cung đã kéo dài hơn trăm năm, cứ mỗi hai, ba mươi năm lại có một lần đại chiến. Trong nửa tháng đổ lại đây, có vẻ như cái thời hạn hai ba mươi năm đó lại đến, xung đột giữa hai phái liên tục leo thang, cao thủ Tiên Thiên tử vong hơn chục người, đến cả Huyền Tàng cũng đã tham chiến nhiều trận, thời điểm xuất hiện thương vong ở cấp độ này e rằng cũng không còn xa.”
“Theo như tính toán của Võ Lâm Minh phó minh chủ, nguyên nhân sâu xa cho những trận xung đột này là do sự xuất hiện của một loại kỳ vật gọi Thiên Niên Băng Phách. Nếu có ai muốn biết thứ kỳ vật ấy công dụng ra sao, hình dáng thế nào, có thể lên đường đến Tuyết Vực trực tiếp tìm xem. Tu vi kiến nghị là Huyền Tàng đệ tam tạng trở lên, nội công Tuyệt Học cảnh giới Đại Thành.”
Từ Hiền không nhịn được phì cười: “Võ Lâm Minh phó minh chủ này cũng đủ xấu tính, này là muốn dụ dỗ mấy kẻ ngu xuẩn đi chịu chết sao?”
Trong đầu thì nghĩ: ‘Võ Lâm Minh và Lãnh Hàn Cung kia e rằng có quan hệ gì đó. Rõ ràng là chuyện xung đột giữa hai phái, nhưng thông tin về Huyết Y Giáo thì nhiều mà Lãnh Hàn Cung lại ít, ẩn sự trong này… chậc chậc.’
Có điều cũng nhờ chút thông tin ít ỏi này mà Từ Hiền mới biết được, thứ kỳ tửu Tuyết Hoa Lộ mà Lý Bất Mặc từng nhắc khi kể đến chuyện đánh cược với Tiểu Đổ Quỷ chính là đặc sản của Lãnh Hàn Cung.
Lý Tự Thành không biết tiên sinh nhà mình đang nghĩ đến chuyện rượu bia, nghe lời vừa rồi của hắn, gã bèn hỏi: “Tiên sinh, vậy phó minh chủ kia chính là ác nhân sao? Chúng ta có phải nên tiêu diệt người này, tránh cho kẻ khác bị hại?”
‘Tiêu diệt hay bị tiêu diệt đây?’
Từ Hiền lắc đầu thầm tự giễu, không trả lời mà chỉ kể một câu chuyện: “Tự Thành a Tự Thành, giả sử có một ngày tiên sinh đi vào rừng, bất ngờ phát hiện một cây linh chi ngàn năm mọc bên vách đá cheo leo, xung quanh còn có độc xà ẩn hiện. Tiên sinh lúc ấy không biết võ công, nên dù rất muốn hái cây linh chi đó, nhưng vì sợ có hại đến tính mệnh nên không dám, chỉ có thể hậm hực quay về.”
Đưa một tay lên gác sau cổ, hắn lại kể tiếp: “Lúc tiên sinh về làng, dân làng thấy vẻ mặt của ta cau có khó chịu, thế là xúm lại hỏi ta vì sao lại thế? Lúc ấy ta liền kể lại chuyện mình phát hiện linh chi ngàn năm cho bọn họ nghe, cũng khuyên rằng chỗ đó rất nguy hiểm, nếu không có bản lĩnh thực sự thì chớ nên ham hố để rồi tự mình hại mình.”
“Nhân tính là thứ khó đoán nhất trên đời này, con người hơn con vật ở chỗ không chỉ có bản năng mà còn có lý trí, nhưng khi lòng tham quá lớn trỗi dậy thì người hay vật cũng đều như nhau, vì cái béo bở trước mắt mà bỏ cả tánh mạng của mình. Dù đã được tiên sinh khuyên răn từ trước, cuối cùng cũng có ba vị dân làng không tin tà, tìm đến chỗ vách đá với ý định thử vận may một phen.”
“Người thứ nhất rất giỏi leo trèo, nhưng lúc leo đến gần chỗ linh chi thì bị độc xà núp dưới gốc linh chi cắn chết. Người thứ hai rất giỏi đối phó rắn, tự chế tạo được bột phấn có thể xua đuổi độc xà, nhưng lúc trèo xuống vách đá thì lại bị trượt chân mà chết.”
“Người thứ ba chẳng giỏi điều gì, thấy hai người kia chết không toàn thây, y sợ hãi quá chừng, quay đầu bỏ chạy về làng. Chừng ba ngày sau, nỗi sợ qua đi, lòng tham của y lại trỗi dậy, một lần nữa vào rừng để hái linh chi.”
“Chỉ là lần này còn chưa kịp đến chỗ vách đá, y đã xui xẻo gặp phải một con hổ đói, trở thành bữa trưa của nó, kết thúc cuộc đời mình một cách lãng xẹt.”
“Con người là một loại sinh vật rất khó hiểu, biết thức đêm không tốt nhưng vẫn thức đêm, biết uống rượu hại thân nhưng vẫn uống rượu, biết không học sẽ dốt nhưng vẫn ham chơi, chỉ vì không khống chế được dục vọng của bản thân mà nhận đủ loại quả đắng, hại chính mình, hại thân nhân, hại thiên hạ.”
Kết thúc câu chuyện, Từ Hiền chợt hỏi gã đệ tử khai môn nhà mình: “Tự Thành ngươi nói xem, trong câu chuyện vừa rồi, tiên sinh có phải là ác nhân không?”
Lý Tự Thành gãi đầu đáp lại: “Tiên sinh không phải ác nhân, cái chết của ba vị dân làng kia là do họ tự mình chuốc lấy. Người không ác, nhưng có lỗi, lỗi của người nằm ở chỗ đã kể lại câu chuyện về linh chi, nếu người không kể thì mọi chuyện đã không diễn ra. Chỉ là nếu tiên sinh lỗi một thì ba vị dân làng phải lỗi đến chín mươi chín, bởi kẻ ra quyết định có nên đi hái linh chi hay không cuối cùng vẫn là họ, không có ai bắt ép cả.”
Từ Hiền gật đầu tỏ vẻ tán đồng với câu trả lời của gã, thán một câu “trẻ nhỏ dễ dạy”. Có điều còn chưa kịp nói gì thêm thì đã nghe Lý Tự Thành cười khờ hỏi rằng:
“Tiên sinh, vậy đến lúc người học được bản lĩnh thần thông rồi có đi hái cây linh chi đó chưa? Chắc là người đã ăn rồi nhỉ, có thơm không tiên sinh?”
Từ Hiền: “…”
Lắc đầu một cái, hắn cười khổ đáp lại: “Không ăn được, lúc đó đã có một vị cao thủ võ lâm đi ngang qua hái trước rồi.”
Lý Tự Thành nghe vậy cũng không bất ngờ, lộ ra vẻ mặt như đang nói “quả nhiên là thế”, thấp giọng lẩm bẩm: “Cũng phải, nếu mà ăn được linh chi thì tiên sinh đã không bị què.”
Từ Hiền: “…”
Ăn linh chi có thể chữa què, e rằng ở thế giới này thì việc ấy đúng là có thể xảy ra, nhưng nghe vào vẫn thấy sai sai chỗ nào đó.
Từ Hiền không muốn bị tên đệ tử nhà mình làm cho câm nín thêm lần thứ ba, vậy nên hắn vội lảng sang chuyện khác, rời xa linh chi ngàn năm.
“Hẳn là ăn được rồi.” Nói một câu vô thưởng vô phạt, Từ Hiền bắt đầu đưa tay về phía cái nồi trước mặt mình, một cái nồi có tạo hình hết sức kỳ lạ.
Nó chính là phần quà mà hắn bất ngờ nhận được sau khi chứng kiến A Nhị bếp trưởng làm món chim sẻ nướng lá chanh.
Dưới một cây cổ thụ cành lá sum sê, hai thầy trò Từ Hiền trải thảm mà ngồi, sau lưng mỗi người là một chiếc ghế ngồi bệt làm bằng Tụ Linh Mộc có chỗ dựa, trước mặt mỗi người là một quả dừa tươi ngon mọng nước mua từ Đoạn Nghĩa Lâu, Từ Hiền dùng một chiếc nồi thần nấu bữa trưa, Lý Tự Thành thì đọc báo cho hắn nghe, Đậu Phụ nằm ngủ ngay bên cạnh, cái gọi là hưởng thụ sợ rằng cũng chỉ đến thế.
Không mâm vàng cỗ ngọc, không cung điện xa hoa, không gan rồng tủy phượng, tất cả những điều nghe chừng rất trân quý ấy đều không cần, bởi nhiều khi những thứ bình đạm, giản dị mới là thứ quý giá nhất.
Rột! Rột! Dùng một cái ống hút cũng làm bằng Tụ Linh Mộc để hút nước dừa, Từ Hiền tựa lưng vào ghế, đầu ngửa ra sau, mắt nhìn cành lá rậm rạp che hết nắng nóng, nghe Lý Tự Thành đọc tin tức về Huyết Y Giáo, hắn nhẹ giọng bình luận:
“Nhiều người thống trị ngang cấp như vậy, có cái hay cũng có cái dở. Huyết Y Giáo này có thể phát triển đến mức này, hẳn là phân chia lợi ích rất đồng đều.”
Lý Tự Thành nghe cái hiểu cái không, chỉ có thể tiếp tục chú tâm vào tờ Võ Lâm Thời Đại mà tiên sinh nhà mình dùng một tờ Giang Hồ Nhật Báo đổi lấy từ vị Lý tiền bối kia trước lúc chia tay.
Hai tháng trời theo Từ Hiền bôn ba, hết xem hắn soạn bản thảo tiểu thuyết lại đến đọc báo học từ mới, Lý Tự Thành đã nhận biết được rất nhiều mặt chữ, việc đọc trôi chảy một tờ báo đối với gã bây giờ hoàn toàn không có gì khó khăn.
Cũng học tiên sinh nhà mình hút một ngụm nước dừa để thấm giọng, Lý Tự Thành tiếp tục: “Trấn môn chi bảo của Huyết Y Giáo là một con linh thú gọi Băng Ti Huyết Tằm Vương, diệu dụng nhiều mặt, trong đó có một loại công dụng thường thấy nhất là để chế tạo bảo y...”
“…Băng Ti Huyết Tằm Vương nhả ra một loại tơ tằm cực phẩm có màu đỏ như máu, lạnh như băng, y phục được chế tác từ loại tơ này có thể co giãn tùy ý, đao kiếm không thương, tự động tẩy uế, nhiều loại công năng hữu dụng.”
Từ Hiền nghe đến đây liền tặc lưỡi cảm thán: “Tơ lạnh như băng? Chậc, vậy chỉ cần mặc vào thì không cần sợ nóng. Nhưng sợ là cũng chỉ người tập võ mới có tư cách khoác lên, người bình thường mà không có nội công hộ thể, e rằng mặc được một hai hôm là có thể chầu tổ tiên vì chết rét.”
Lý Tự Thành lại gãi đầu thắc mắc: “Tiên sinh, nếu là người tập võ thì không sợ nóng lạnh, vậy loại công năng này chẳng phải vô dụng sao?”
Từ Hiền lắc đầu một cái, cười nhạt giải thích: “Không sợ nóng lạnh chẳng đồng nghĩa với việc ngươi sẽ không cảm thấy khó chịu vì nhiệt độ, như ta ngươi lúc này chẳng phải cũng đang tìm nơi bóng mát tránh nắng hay sao?”
Rột!
Làm tí nước dừa, hắn còn nói: “Vả lại… ngươi xem tên môn phái này là gì? Là Huyết Y Giáo, đoán chừng mỗi người trong giáo phái này đều khoác một bộ bảo y như thế. Họ sinh sống ở Tuyết Vực, đã quen với loại khí hậu rét lạnh, khắc nghiệt nơi đó. Nếu mà bước vào Trung Nguyên, gặp phải thời tiết oi bức thế này, ta tin rằng loại công năng kia chính là thứ bọn họ cảm thấy đáng giá nhất của bộ bảo y trên người.”
“Đa tạ tiên sinh, Tự Thành thụ giáo!”
Lý Tự Thành vái Từ Hiền một cái, tỏ vẻ bản thân nhờ hắn mà được thêm kiến thức, sau đó đọc tiếp tin tức trên báo:
“Kẻ thù của Huyết Y Giáo cũng là một trong tam đại thế lực của Tuyết Vực, xưng là Lãnh Hàn Cung. Lãnh Hàn Cung tuy nhân số không nhiều nhưng cao thủ đông đảo, nổi tiếng với…”
Đọc một số tin tức đường viền về Lãnh Hàn Cung, đoạn gã lại tiếp tục với tin chính:
“…thù hận giữa Huyết Y Giáo và Lãnh Hàn Cung đã kéo dài hơn trăm năm, cứ mỗi hai, ba mươi năm lại có một lần đại chiến. Trong nửa tháng đổ lại đây, có vẻ như cái thời hạn hai ba mươi năm đó lại đến, xung đột giữa hai phái liên tục leo thang, cao thủ Tiên Thiên tử vong hơn chục người, đến cả Huyền Tàng cũng đã tham chiến nhiều trận, thời điểm xuất hiện thương vong ở cấp độ này e rằng cũng không còn xa.”
“Theo như tính toán của Võ Lâm Minh phó minh chủ, nguyên nhân sâu xa cho những trận xung đột này là do sự xuất hiện của một loại kỳ vật gọi Thiên Niên Băng Phách. Nếu có ai muốn biết thứ kỳ vật ấy công dụng ra sao, hình dáng thế nào, có thể lên đường đến Tuyết Vực trực tiếp tìm xem. Tu vi kiến nghị là Huyền Tàng đệ tam tạng trở lên, nội công Tuyệt Học cảnh giới Đại Thành.”
Từ Hiền không nhịn được phì cười: “Võ Lâm Minh phó minh chủ này cũng đủ xấu tính, này là muốn dụ dỗ mấy kẻ ngu xuẩn đi chịu chết sao?”
Trong đầu thì nghĩ: ‘Võ Lâm Minh và Lãnh Hàn Cung kia e rằng có quan hệ gì đó. Rõ ràng là chuyện xung đột giữa hai phái, nhưng thông tin về Huyết Y Giáo thì nhiều mà Lãnh Hàn Cung lại ít, ẩn sự trong này… chậc chậc.’
Có điều cũng nhờ chút thông tin ít ỏi này mà Từ Hiền mới biết được, thứ kỳ tửu Tuyết Hoa Lộ mà Lý Bất Mặc từng nhắc khi kể đến chuyện đánh cược với Tiểu Đổ Quỷ chính là đặc sản của Lãnh Hàn Cung.
Lý Tự Thành không biết tiên sinh nhà mình đang nghĩ đến chuyện rượu bia, nghe lời vừa rồi của hắn, gã bèn hỏi: “Tiên sinh, vậy phó minh chủ kia chính là ác nhân sao? Chúng ta có phải nên tiêu diệt người này, tránh cho kẻ khác bị hại?”
‘Tiêu diệt hay bị tiêu diệt đây?’
Từ Hiền lắc đầu thầm tự giễu, không trả lời mà chỉ kể một câu chuyện: “Tự Thành a Tự Thành, giả sử có một ngày tiên sinh đi vào rừng, bất ngờ phát hiện một cây linh chi ngàn năm mọc bên vách đá cheo leo, xung quanh còn có độc xà ẩn hiện. Tiên sinh lúc ấy không biết võ công, nên dù rất muốn hái cây linh chi đó, nhưng vì sợ có hại đến tính mệnh nên không dám, chỉ có thể hậm hực quay về.”
Đưa một tay lên gác sau cổ, hắn lại kể tiếp: “Lúc tiên sinh về làng, dân làng thấy vẻ mặt của ta cau có khó chịu, thế là xúm lại hỏi ta vì sao lại thế? Lúc ấy ta liền kể lại chuyện mình phát hiện linh chi ngàn năm cho bọn họ nghe, cũng khuyên rằng chỗ đó rất nguy hiểm, nếu không có bản lĩnh thực sự thì chớ nên ham hố để rồi tự mình hại mình.”
“Nhân tính là thứ khó đoán nhất trên đời này, con người hơn con vật ở chỗ không chỉ có bản năng mà còn có lý trí, nhưng khi lòng tham quá lớn trỗi dậy thì người hay vật cũng đều như nhau, vì cái béo bở trước mắt mà bỏ cả tánh mạng của mình. Dù đã được tiên sinh khuyên răn từ trước, cuối cùng cũng có ba vị dân làng không tin tà, tìm đến chỗ vách đá với ý định thử vận may một phen.”
“Người thứ nhất rất giỏi leo trèo, nhưng lúc leo đến gần chỗ linh chi thì bị độc xà núp dưới gốc linh chi cắn chết. Người thứ hai rất giỏi đối phó rắn, tự chế tạo được bột phấn có thể xua đuổi độc xà, nhưng lúc trèo xuống vách đá thì lại bị trượt chân mà chết.”
“Người thứ ba chẳng giỏi điều gì, thấy hai người kia chết không toàn thây, y sợ hãi quá chừng, quay đầu bỏ chạy về làng. Chừng ba ngày sau, nỗi sợ qua đi, lòng tham của y lại trỗi dậy, một lần nữa vào rừng để hái linh chi.”
“Chỉ là lần này còn chưa kịp đến chỗ vách đá, y đã xui xẻo gặp phải một con hổ đói, trở thành bữa trưa của nó, kết thúc cuộc đời mình một cách lãng xẹt.”
“Con người là một loại sinh vật rất khó hiểu, biết thức đêm không tốt nhưng vẫn thức đêm, biết uống rượu hại thân nhưng vẫn uống rượu, biết không học sẽ dốt nhưng vẫn ham chơi, chỉ vì không khống chế được dục vọng của bản thân mà nhận đủ loại quả đắng, hại chính mình, hại thân nhân, hại thiên hạ.”
Kết thúc câu chuyện, Từ Hiền chợt hỏi gã đệ tử khai môn nhà mình: “Tự Thành ngươi nói xem, trong câu chuyện vừa rồi, tiên sinh có phải là ác nhân không?”
Lý Tự Thành gãi đầu đáp lại: “Tiên sinh không phải ác nhân, cái chết của ba vị dân làng kia là do họ tự mình chuốc lấy. Người không ác, nhưng có lỗi, lỗi của người nằm ở chỗ đã kể lại câu chuyện về linh chi, nếu người không kể thì mọi chuyện đã không diễn ra. Chỉ là nếu tiên sinh lỗi một thì ba vị dân làng phải lỗi đến chín mươi chín, bởi kẻ ra quyết định có nên đi hái linh chi hay không cuối cùng vẫn là họ, không có ai bắt ép cả.”
Từ Hiền gật đầu tỏ vẻ tán đồng với câu trả lời của gã, thán một câu “trẻ nhỏ dễ dạy”. Có điều còn chưa kịp nói gì thêm thì đã nghe Lý Tự Thành cười khờ hỏi rằng:
“Tiên sinh, vậy đến lúc người học được bản lĩnh thần thông rồi có đi hái cây linh chi đó chưa? Chắc là người đã ăn rồi nhỉ, có thơm không tiên sinh?”
Từ Hiền: “…”
Lắc đầu một cái, hắn cười khổ đáp lại: “Không ăn được, lúc đó đã có một vị cao thủ võ lâm đi ngang qua hái trước rồi.”
Lý Tự Thành nghe vậy cũng không bất ngờ, lộ ra vẻ mặt như đang nói “quả nhiên là thế”, thấp giọng lẩm bẩm: “Cũng phải, nếu mà ăn được linh chi thì tiên sinh đã không bị què.”
Từ Hiền: “…”
Ăn linh chi có thể chữa què, e rằng ở thế giới này thì việc ấy đúng là có thể xảy ra, nhưng nghe vào vẫn thấy sai sai chỗ nào đó.
Từ Hiền không muốn bị tên đệ tử nhà mình làm cho câm nín thêm lần thứ ba, vậy nên hắn vội lảng sang chuyện khác, rời xa linh chi ngàn năm.
“Hẳn là ăn được rồi.” Nói một câu vô thưởng vô phạt, Từ Hiền bắt đầu đưa tay về phía cái nồi trước mặt mình, một cái nồi có tạo hình hết sức kỳ lạ.
Nó chính là phần quà mà hắn bất ngờ nhận được sau khi chứng kiến A Nhị bếp trưởng làm món chim sẻ nướng lá chanh.
Danh sách chương